1.Khái niệm biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt ?

>> Luật sư tư vấn Luật hình sự trực tuyến gọi:1900.0191

Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là biện pháp điều tra được tiến hành trên cơ sở ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật về lĩnh vực âm thanh, hình ảnh, điện tử viễn thông, trình độ của chuyên viên công nghệ thông tin… bí mật thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến đối tượng bị áp dụng do người có thẩm quyền áp dụng nhằm phục vụ công tác điều tra, khám phá tội phạm.

2.Các trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt

Căn cứ theo điều 224 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau :

Điều 224. Trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt

Có thể áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đối với các trường hợp:

1. Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền;

2. Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

3. Quy trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt

Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, chương XIV, từ điều 223 đến 228 quy định về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Theo đó, các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm các hoạt động: (i) Ghi âm bí mật; (ii) ghi hình bí mật; (iii) nghe điện thoại bí mật; (iv) thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Các hoạt động này chỉ được thực hiện trong phạm vi giới hạn là trong giai đoạn điều tra vụ án, tức chỉ được thực hiện sau khi có quyết định khởi tố vụ án và phải kết thúc trước khi có kết luận điều tra

Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được sử dụng trong hai trường hợp, gồm: (i) Những vụ án liên quan tới tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; hoặc (ii) Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

Về thẩm quyền áp dụng, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Truờng hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ lý, điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự khu vực đề nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định áp dụng. Ở đây, có hai vấn đề cần lưu ý liên quan đến thẩm quyền của Viện kiểm sát:

Thứ nhất, Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, và điều luật không quy định về việc Thủ trưởng cơ quan điều tra có quyền từ chối. Mặt khác, về nguyên tắc, cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát. Có nghĩa là, trong mọi trường hợp, khi Viện trưởng Viện kiểm sát yêu cầu thực hiện các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra có nghĩa vụ phải ban hành quyết định thực hiện.

Thứ hai, căn cứ theo nội dung điều luật, về phía cơ quan điều tra, luật cho phép Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên có quyền ban hành quyết định áp dụng, nhưng lại chỉ cho phép Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu mà chưa đề cập tới Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp cao hơn trong việc yêu cầu cơ quan điều tra cùng cấp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Như vậy, có thể suy ra rằng, đối với các vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, hoặc thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì Viện kiểm sát hoàn toàn không có quyền yêu cầu phía Cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp này. Đây là một thiếu sót về thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát trong các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt.

Khi ban hành quyết dịnh áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, thì quyết định phải ghi rõ thông tin cần thiết về đối tượng bị áp dụng, tên biện pháp được áp dụng, thời hạn, địa diểm áp dụng, cơ quan tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và các nội dung khác theo quy định mà văn bản tố tụng phải có tại khoản 2 Ðiều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Sau khi ban hành, quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tuy nhiên, trong quy định này, luật lại không nói rõ thời hạn mà Cơ quan điều tra phải gửi quyết định áp dụng sang Viện kiểm sát và thời hạn mà Viện kiểm sát phải phê chuẩn kể từ khi nhận được quyết định áp dụng. Có lẽ, các nhà làm luật đã để các quy định này lại cho các văn bản phối hợp liên ngành dưới luật để phù hợp với tình hình thực tế.

Sau khi áp dụng, Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp này, kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ nếu xét thấy không còn cần thiết

Trước, trong và sau khi áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền và người thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải giữ bí mật về việc áp dụng này

Về thời hạn áp dụng, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được thực hiện không quá 02 tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn. Trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Như vậy, có nghĩa là thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể ngang bằng với thời hạn điều tra theo quy định tại Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Theo đó, chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nếu xét thấy cần gia hạn thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn xem xét, quyết định việc gia hạn.

Trong quá trình áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải hủy bỏ quyết định đó khi thuộc một trong các trường hợp: (i) Có đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền; (ii) Có vi phạm trong quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; (iii) Không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Cần lưu ý, điều luật quy định rằng khi thuộc một trong ba trường hợp trên, Viện trưởng Viện kiểm sát phải ra quyết định hủy bỏ, nghĩa là đây là nghĩa vụ bắt buộc chứ không phải quyền tùy nghi.

Trong các trường hợp cần hủy bỏ, trường hợp có vi phạm trong quá trình áp dụng khá mơ hồ về nội hàm. Bởi lẽ, luật không quy định quá nhiều về quá trình thực hiện các biện pháp đó, mà chỉ quy định chung là Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, và người thi hành có nghĩa vụ giữ bí mật trong quá trình thực hiện. Trong khi đó, có vẻ như vi phạm theo quy định về các trường hợp phải hủy bỏ có nội hàm rộng hơn nghĩa vụ giữ bí mật, nếu không thì các nhà làm luật đã quy định trực tiếp về việc vi phạm giữ bí mật. Có lẽ, các trường hợp vi phạm này sẽ được quy định cụ thể hơn trong các văn bản phối hợp liên ngành dưới luật để phù hợp và uyển chuyển với tình hình thực tế.

4. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong vụ án ma túy

Để kiểm sát biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định tại Chương XVI BLTTHS năm 2015, Kiểm sát viên phải nắm vững quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (nêu ở mục 1).

Bên cạnh đó, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nguyên tắc, căn cứ, điều kiện, trình tự, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định tại Chương XVI BLTTHS.

Ghi âm, ghi hình (có âm thanh) bí mật trong quá trình điều tra, truy tố thường được áp dụng đối với các vụ án ma tuý có nguồn gốc từ hoạt động trinh sát, qua tố giác, tin báo, được thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm.

Nghe điện thoại bí mật được áp dụng khi xác minh mối liên quan giữa bị can với đối tượng bên ngoài liên quan đến vụ án, xác định số lần phạm tội, số lượng ma túy…

Thu thập bí mật dữ liệu điện tử áp dụng trong các vụ án ma tuý đối tượng bán ma tuý qua internet, tội phạm lưu dữ thông tin về hoạt động phạm tội trên các thiết bị viễn thông.

Các loại thông tin, tài liệu có thể thu thập được khi áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm tệp tin hình ảnh, âm thanh và các dữ liệu điện tử khác. Theo quy định, các tài liệu, thông tin được thu thập từ các biện pháp này sẽ được xử lý theo hai hướng:

Một là, các tài liệu, thông tin có liên quan đến vụ án có thể được sử dụng làm chứng cứ trong khởi tố, điều tra, truy tố, và xét xử vụ án hình sự;

Hai là, các tài liệu, thông tin không liên quan đến vụ án phải được tiêu hủy kịp thời.

Nhận được đề nghị phê chuẩn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu gửi kèm văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Sau khi nghiên cứu, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Quá trình giải quyết vụ án phát hiện có căn cứ và xét thấy cần thiết mà Cơ quan điều tra không ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì lãnh đạo Viện thực hiện quyền kiến nghị theo quy định của pháp luật.

Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ lý, điều tra mà có căn cứ và cần phải áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nhưng Thủ trưởng Cơ quan điều tra không đề nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định áp dụng thì Viện trưởng VKSND cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra đang thụ lý, điều tra đề nghị Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định áp dụng; nếu Cơ quan này không thực hiện thì báo cáo, đề xuất Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp yêu cầu Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định.

Việc gia hạn thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt không quá 02 tháng, kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn. Trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo quy định tại khoản 2 Điều 226 BLTTHS.

Khi có căn cứ hủy bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định tại Điều 228 BLTTHS, Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi gửi đến bạn. Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email Tư vấn pháp luật dân sự qua Email [email protected] hoặc qua 1900.0191.

5. Ghi âm, ghi hình có được coi là các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt

Căn cứ theo khoản 1 điều 223 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :

Điều 223. Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt

Sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:

1. Ghi âm, ghi hình bí mật;

2. Nghe điện thoại bí mật;

3. Thu thập bí mật dữ liệu điện tử.

Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty chúng tôi.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group