1. Khái quát

Trong khía cạnh liên quan đến lý thuyết thuần túy, hầu hết cơ sở trong kinh tế học tiền tệ đều bị tan rã trong thế kỷ 18. Thế kỷ 19 có rất ít việc để bàn, đa số là chấp nhận thuyết tiền tệ của Cantillon và Hume, đôi lúc chỉ thêm thắt gây lộn xộn hơn là soi sáng.

Có lẽ Bullion Report là người phát biểu tóm lược súc tích nhất về quan điểm tiền tệ trong thời kỳ này vào năm 1810. Vào những năm đầu thế kỷ 19, việc chuyển sang tiền giấy không thể chuyển hoán đã chứng kiến chỉ một sự gia tăng không đáng kể trong lưu thông tiền giấy của ngân hàng nước Anh và thay đổi một ít trong hối suất. Nhưng đầu năm 1808, sự gia tăng phát hành tiền giấy bắt đầu khiến cho bản thân nó cảm thấy giá cả tăng ổn định và hối suất giảm. Một số khu vực công cộng bày tỏ sự quan tâm của họ, đầu năm 1810, Francis Horner, một thành viên trong Nghị viện, đề xuất với Hạ viện rằng nên chỉ định một ủy ban nhằm điều nghiên giá vàng nén tăng cao. Một số nhân chứng được triệu tập để chứng nhận, sau khi Horner, William Huskisson, và Henry Thornton thảo ra báo cáo đọc trước Hạ viện trong tháng Sáu. Thế nhưng cuộc tranh cãi không phải kéo dài cho đến năm sau, khi kết luận bị bác bỏ.

2. Báo cáo vàng nén

Báo cáo vàng nén là tranh luận chính thức đầu tiên phản đối chính sách tiền tệ cân nhắc theo ý muốn. Nó là nguyên nhân duy trì một lượng phát hành tiền giấy quá mức gây ảnh hưởng đến giá trị tiền giấy và góp phần đẩy giá vàng nén lên cao (lạm phát). Có phần nghịch lý, báo cáo cho rằng vấn đề tiền tệ đang bao trùm ở Anh không phải do thiếu sự tin tưởng tiền giấy của công chúng, vì phần lớn công chúng đều giữ vững niềm tin vào tiền giấy. Quan điểm của ủy ban về vấn đề này được Thornton đề cập với quan điểm tương tự trong quyển sách của ông xuất bản năm 1802, An Enquiry into the Nature and Effects of the Paper Credit of Great Britain. Thế nhưng, vào thời điểm này, họ đi đến mục đích của báo cáo, ủy ban thực tế đã đảo ngược hoàn toàn lời kết luận, và kết luận rằng việc trở lại khả năng chuyển hoán là biện pháp duy nhất:

“Phục hồi hiệu quả niềm tin vào giá trị phương tiện lưu thông ở vương quốc” (Cannan, The Paper Pound, trang 70).

3. David Ricardo và vấn đề tiền tệ

Báo cáo vàng nén như một cái cớ cho các sách mỏng đầu tiên của David Ricardo về vấn đề tiền tệ được ấn hành như những chú giải về báo cáo. Năm 1809, Ricardo ấn hành quyển “Treatise on the Price of Bullion,” đến năm 1816, ra mắt bạn đọc quyển “Proposals for an Economi­cal and Secure Currency”. Trong cả hai, Ricardo tái khẳng định thuyết số lượng tiền tệ và khuyên nên trở lại tính khả hoán. Khái niệm số lượng hoàn toàn chi phối thuyết tiền tệ của Ricardo. Ông cho rằng cả hai đều tăng hay giảm mức giá đều được điều tiết khi thay đổi số lượng tiền. Quan điểm tiền tệ là kho giá trị có vẻ ông không nghĩ đến. ông không lưu ý nào về nhu cầu tiền tệ. Tiền tệ được định nghĩa theo nghĩa hẹp nhất như một người điều chỉnh giá trị đơn thuần. Ricardo hoặc loại bỏ hoặc phớt lờ quan điểm xem tiền tệ như sự liên kết giữa hiện tại và tương lai vì công dụng của sự tồn tại lâu dài và khó tìm của nó. Quan điểm tín dụng của ông cũng rất hạn chế. Ví dụ, ông không nghĩ chi phiếu như công cụ lưu thông (như Cantillon) mà chỉ là một phương tiện tiết kiệm hóa cách sử dụng tiền. Vì ông không xem chi phiếu như công cụ tiền tệ, vì thế chi phiếu không ảnh hưởng đến giá cả. Nếu kết hợp với nhau, quan điểm của Ricardo về tiền tệ có ảnh hưởng thay đổi thuyết số lượng tiền tệ thành thuyết tiền tệ Ricardo. Phát biểu có hệ thống của ông là phiến diện, là hạn chế khiến cho nhiều nhà kinh tế học sau này phải hoài nghi về bất kỳ thuyết tiền tệ hay giá cả trong đó có bộ phận số lượng.

Sau khi Ricardo mất, người ta đã tìm thấy trong đóng giấy tờ của ông một bản thảo, rồi ấn bản vào năm 1823 là quyển Plan of a National Bank, chi tiết hóa quan niệm tiền giấy là vật thay thế hiệu quả đối với tiền kim loại vì nó cần duy trì với tài nguyên ít hơn. Tất cả những gì cần thiết là ấn định số lượng tiền giấy thật dứt khoát. Ricardo nghĩ ra một kế hoạch cho điều này qua đó nhà nước độc quyền phát hành tiền giấy và chỉ có thể phát hành giấy bạc mới trên cơ sở hậu thuẫn của số vàng nhập từ nước ngoài. Tuy nhiên, đã đưa ra yếu tố tính co dãn tiền tệ bằng cách cho phép ngân hàng trung ương tham gia vào hoạt động thị trường-mở cửa: ngân hàng sẽ mua chứng khoán chính phủ khi muốn tăng số lượng tiền tệ và bán chứng khoán khi muốn giảm số lượng tiền tệ. Những lần mua bán này được xác định bằng thay đổi hối suất, phản ánh mối liên hệ giữa giá trị tiền giấy và tiền kim loại. Vì thế có thể thấy rằng quan điểm về những hoạt động như thế, trong khi đôi lúc xem là đỉnh cao của thời hiện đại, thực ra là một quan điểm rất lâu đời. Ngoài ra, có vẻ là một bước ngắn từ việc nhận thấy tính hợp pháp của những hoạt động như thế theo kim bản vị cho đến tiền giây được quản lý hoàn toàn.

4. Quan điểm của John Stuart Mill về tiền tệ

John Stuart Mill, người đại diện cho kinh tế học cổ điển có nhiều ảnh hưởng cũng chấp nhận thuyết số lượng nhưng bổ sung thêm một số đặc điểm, một trong số này dùng để chỉnh lý những phần thừa của Ricardo. Vì một lẽ, Mill thừa nhận (như Cantillon và Hume) kết luận cứng nhắc của thuyết số lượng dựa trên giả định của sự phân phối theo tỉ lệ như nhau của tiền mới liên quan đến việc nắm giữ tiền ban đầu. Bất kỳ sự phân phối khác đều làm rối tung tính tỉ lệ chặt chẽ giữa tiền tệ và giá cả. Ngoài ra, ông cho rằng thuyết tiền tệ chặt chẽ chỉ có tiền kim loại và rằng:

“Khi tín dụng đóng vai trò như một phương tiện mua bán, khác với tiền mặt khả dụng, thì sau này chúng ta sẽ nhận thấy sự liên kết giữa giá cả và số lượng phương tiện lưu thông ít nhiều mang tính trực tiếp và mật thiết, sự liên kết như thế khi không còn tồn tại nữa sẽ thừa nhận hình thức diễn đạt đơn giản như thế”. (Principles of Political Economy, trang 495).

Sau cùng, Mill thừa nhận có sự gia tăng tín dụng ngân hàng trong điều kiện có đủ việc làm sẽ kéo lãi suất xuống thấp.

5. Thuyết tiền tệ của Henry Thornton

Vượt trội hơn số các lý thuyết gia tiền tệ cổ điển khác, có lẽ là Henry Thornton, một chủ ngân hàng Anh và cũng là thành viên trong Nghị viện đề cập ở phần trên liên quan đến Báo cáo vàng nén năm 1810.

Ông là con trai của John Thornton (1720–1790) ở Clapham, Luân Đôn, người đã từng là một trong những người bảo trợ ban đầu cho phong trào truyền giáo ở Anh. Năm 5 tuổi, Henry theo học trường Mr Davis ở Wandsworth Common, và sau đó là với Mr Roberts ở Point Pleasant, Wandsworth. Từ năm 1778, ông được làm việc trong nhà đếm số của người anh họ Godfrey Thornton, hai năm sau gia nhập công ty của cha mình, nơi sau này ông trở thành đối tác.

Ông là người đi tiên phong trong việc thành lập giáo dục người khiếm thính, cùng với Rev John Townsend và Henry Cox Mason, hiệu trưởng Bermondsey, trường học miễn phí đầu tiên của Anh dành cho học sinh khiếm thính, Trung tâm tị nạn cho người điếc và câm ở London. Tên và vị trí của nó đã thay đổi qua nhiều thế kỷ; Trường Hoàng gia dành cho Trẻ em Điếc Margate đóng cửa vào năm 2015.

Thornton có hai đóng góp quan trọng đối với thuyết tiền tệ: (1) phân biệt giữa lãi suất tự nhiên và lãi suất (tiền vay) ngân hàng và (2) thuyết “tiết kiệm cưỡng chế”.

Về nguyên tắc thứ nhất, Thornton nêu chính xác mức lời trên vốn đầu tư (xác định bằng tiết kiệm và năng suất) điều tiết lãi suất ngân hàng đối với tiền vay. Nếu lãi suất ngân hàng thấp hơn mức lời trên vốn đầu tư, thì sự cạnh tranh đối với các khoản cho vay kinh doanh sẽ kéo lãi suất ngân hàng lên cao, nếu lãi suất ngân hàng cao hơn mức lời trên vốn đầu tư thì nhu cầu vay ngân hàng sẽ không còn buộc ngân hàng phải hạ lãi suất cho vay. Vì thế, vấn đề xác định số lượng các khoản cho vay tối ưu tùy theo sự so sánh giữa mức lời trên vốn đầu tư (Thornton gọi là mức “tự nhiên”) và lãi suất ngân hàng cho vay. Nếu đầu tư và tiết kiệm được xác định bằng những tác động thực của tiết kiệm và năng suất, thì chỉ có sự thay đổi một tác động này hay tác động khác trong những tác động này sẽ thay đổi biểu giá mục. Trong mô thức này, SS’ tượng trưng cho việc cung cấp tiết kiệm như một chức năng của lãi suất. Cũng như thế, II’ tượng trưng cho nhu cầu đối với ngân quỹ có thể đầu tư cũng là một chức năng của lãi suất. Phần giao nhau giữa SS’ và II’ xác định mức tự nhiên (r). Trong cân bằng tiền tệ, lãi suất vay (ị) sẽ bằng với mức tự nhiên. Nhưng nếu cân bằng tiền tệ bị xáo trộn bởi lượng tiền giấy gia tăng thì lãi suất ngân hàng cho vay sẽ giảm, nghĩa là i’ (vì gia tăng ngân quỹ cho vay). Đồng thời, SS’ và II’ vẫn giữ nguyên không đổi trừ phi có sự thay đổi trong các yếu tố thực tiết kiệm và năng suất, sẽ không mang lại bằng hiện tượng kinh tế thuần túy chẳng hạn như tăng tiền giấy.

Vì thế một khoảng cách sẽ tạo ra khoảng cách giữa mức tự nhiên và lãi suất cho vay, và khoảng cách này sẽ tăng đến nhu cầu vay không thể thỏa mãn. Áp lực lạm phát kế tiếp theo sẽ bị loại bỏ chỉ khi nào lãi suất cho vay một lần nữa lại tặng cao đến mức r trước kia. Thế nhưng, trong tiến trình, giá phải leo đến mức cao hơn. Bằng cách này, thuyết số lượng chứng minh là đúng: Sự gia tăng tiền tệ dẫn đến giá cao hơn nhưng không có sự thay đổi (dài hạn) ở lãi suất thực.

Đóng góp thứ hai của Thornton – thuyết tiết kiệm cưỡng chế – thừa nhận sự gia tăng tiền tệ mang lại sự gia tăng về vốn cũng như gia tăng về giá. Điều này xảy ra miễn là bộ phận tiền mới đi vào các doanh nhân. Nếu doanh nhân chuyển tiền mới này thành Tư bản, thì khi đó sản lượng tác dụng (tích lũy Tư bản cưỡng chế) sẽ đi cùng với giá cao hơn kết hợp với sự gia tăng tiền tệ, do đó tiền tệ không phải là trung tính, như Hume nhận xét. Ngoài ra, Thornton cho rằng khả năng gia tăng tiền giấy trong điều kiện thất nghiệp chung sẽ dẫn đến sự gia tăng về sản lượng và việc làm hơn là sự gia tăng về giá. Rõ ràng, Thornton khẳng định tính trung tính của tiền tệ như một vấn đề dài hạn, và chỉ trong một số tình huống.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)