Trả lời:

1. Khái niệm về thực nghiệm điều tra

Thực nghiệm điều tra là biện pháp điều tra được tiến hành thông qua các hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm đặc biệt trong điều kiện tương tự như điều kiện mà hành vi, sự việc, hiện tượng cần kiểm tra, xác minh đã diễn ra trước đây để có cơ sở khách quan kết luận về hành vi, sự việc, hiện tượng đó phục vụ công tác điều tra, xử lý vụ án hình sự.

Đối với những tài liệu, tình tiết đã thu thập được trong giai đoạn điều tra nhưng chưa xác định được tính khách quan và mức độ tin cậy của chúng, cơ quan điều tra có thể tổ chức thực nghiệm điều tra để kiểm tra, xác minh những tài liệu, tình tiết đó. Khoản 1 Điều 204 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

“Để kiếm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, cơ quan điều tra có quyền thực nghiệm điều tra bằng cách dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc mọi tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi thấy cần, có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ”.

Bản chất của thực nghiệm điều tra là tiến hành các hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm đặc biệt. Cơ sở để tổ chức các hoạt động đó là lời khai của những người tham gia tố tụng như bị can, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng hay giả thuyết điều tra của điều tra viên về hành vi, sự việc, hiện tượng cần kiểm tra, xác minh. Căn cứ vào lời khai của họ và các tài liệu đã thu thập được, cơ quan điều tra có thể xác định được loại thực nghiệm điều tra cần tổ chức, mục đích cụ thể cần đạt được cũng như các điều kiện cụ thể cần tái tạo để tiến hành hoạt động này.

Thực nghiệm điều tra có một số đặc điểm dễ làm cho nó bị nhầm lẫn với những biện pháp điều tra khác được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự như nhận dạng, giám định… Vì vậy, trong thực tế áp dụng, cần phân biệt rõ ranh giới giữa các biện pháp điều tra đó để tránh trường hợp thay thế một biện pháp điều tra này bằng một biện pháp điều tra khác khi giải quyết một vấn đề nhất định đặt ra trong công tác điều tra.

2. Các loại thực nghiệm điều tra hiện nay

Thực nghiệm điều tra có thể được tiến hành dưới hai hình thức diên lại và làm thử.

Diễn lại là trường hợp căn cứ vào lời khai của bị can, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng cơ quan điều tra tổ chức cho họ làm lại, nghe lại, nhìn lại hành vi, sự việc, hiện tượng mà họ khai là đã làm, đã nghe, đã nhìn thấy để có cơ sở khách quan kết luận về lời khai của họ và các tài liệu, tình tiết đã thu thập được.

Làm thử là trường hợp căn cứ vào tài liệu đã thu thập được, kinh nghiệm thực tế điều tra và các giả thuyết điều tra đã được xây dựng, cơ quan điều tra tổ chức tái tạo lại điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, đưa người và phương tiện cần thiết để tiến hành các hoạt động có tính chất thí nghiệm nhằm xác định khả năng xảy ra của sự việc, hiện tượng và mức độ của nó, làm cơ sở khách quan kết luận về các tài liệu đó hoặc giả thuyết điều tra.

Trong thực tế, cơ quan điều tra có thể tổ chức các loại thực nghiệm điều tra sau:

2.1 Xác định khả năng tri giác một sự việc, hiện tượng nhất định

Đây là loại thực nghiệm điều tra được tiến hành nhằm kiểm tra khả năng nghe, nhìn của một người tham gia tố tụng cụ thể (thường là người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng) đối với một tình tiết, hiện tượng nào đó của vụ án trong điều kiện, hoàn cảnh tương tự như lời khai của họ để có cơ sở khách quan kết luận về lời khai đó.

Khả năng quan sát, thụ cảm của một người luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như khoảng cách, điều kiện ánh sáng, thời tiết… và các yếu tố chủ quan như sức khỏe, trạng thái tâm lý của họ khi tri giác sự việc, hiện tượng nhất định … Vì vậy, khi tổ chức loại thực nghiệm điều tra này cần chú ý bảo đảm điều kiện, hoàn cảnh tiến hành thực nghiệm giống ở mức tối đa với điều kiện, hoàn cảnh khi sự việc, hiện tượng xảy ra trong thực tế trước đây; làm rõ sự thay đổi khả năng nghe, nhìn của những người đưa ra thực nghiệm từ thời điểm xảy ra sự việc, hiện tượng đến thời điểm tiến hành thực nghiệm điều tra. Trong trường hợp khi có những yếu tố không thể tái tạo lại được hoàn toàn thì vẫn có thể tiến hành loại thực nghiêm điều tra này nhưng phải hết sức khách quan khi đánh giá kết quả của nó.

Ngoài ra, để kết quả thực nghiệm điều tra được khách quan, đáng tin cậy điều tra viên không được thông báo cho những người đưa ra thực nghiệm biết trước về đối tượng quan sát, thụ cảm và mục đích cụ thể của cuộc thực nghiệm điều tra.

2.2 Xác định khả năng thực hiện một hành vi, một công việc nhất định

Đây là loại thực nghiệm điều tra được tiến hành nhằm làm rõ một người nào đó có khả năng thực hiện được một hành vi cụ thể nào đó nói chung hay trong những điều kiện cụ thể hoặc trong một khoảng thời gian đã xác định hay không.

Cơ sở để tổ chức và tiến hành loại thực nghiệm điều tra này là nội dung lời khai của người tham gia tố tụng (thường là của người bị tạm giữ, bị can) về hành vi, sự việc mà họ khai là đã làm và những điều kiện chù quan, khách quan khi họ thực hiện hành vi, sự việc đó. Kết quả của thực nghiệm điều tra sẽ là cơ sở khách quan để cơ quan điều tra đánh giá và kết luận về tính khách quan và mức độ tin cậy của lời khai của những người đó.

Trong thực tế điều tra, loại thực nghiệm điều tra này cũng thường được sử dụng để kiểm tra kỹ năng nghề nghiệp và

những kỹ năng khác của một người nào đó như kỹ năng viết, vẽ, khắc dấu, kỹ năng tự tạo ra các loại vũ khí khác nhau …

Khi tiến hành loại thực nghiệm điều tra này, điều tra viên cần chú ý đến sự thay đổi có thể có của những người đưa ra thực nghiệm từ thời điểm thực hiện hành vi, công việc đến thởi điểm tiến hành thực nghiệm điều tra như thay đổi về sức khỏe, tâm lý, khả năng chuyên môn… Đồng thời, cần chú ý bảo đảm sự giống nhau ở mức tối đa giữa điều kiện, hoàn cảnh tiến hành thực nghiệm điều tra và điều kiện, hoàn cảnh thực hiện hành vi, công việc trước đó.

2.3 Xác định khả năng diễn ra của một sự việc, hiện tượng

Đây là loại thực nghiệm điều tra mà trong đó cơ quan điều tra tổ chức thí nghiệm một sự việc, hiện tượng nào đó đã xảy ra chưa rõ nguyên nhân theo các giả thuyết điều tra đã đặt ra nhằm xác định nguyên nhân và diễn biến của sự việc, hiện tượng ấy.

Loại thực nghiệm điều tra này thường được tiến hành để kiểm tra các giả thuyết điều tra đã được đặt ra nhằm giải thích: Trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định thì một sự việc, hiện tượng nào đó, theo tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có thể xảy ra hay không, xảy ra như thế nào. Ví dụ: Xác định khả năng tự bắt cháy, nổ của một vật nào đó; hiện tượng hao hụt nhiên liệu trong những điều kiện cụ thể…

Cơ sở để áp dụng loại thực nghiệm điều tra này là toàn bộ nội dung tình hình, tài liệu đã có cùng với những hiểu biết của cơ quan điều tra về sự việc, hiện tượng đó.

Khi tổ chức và tiến hành loại thực nghiệm điều tra nhằm xác định khả năng diễn ra của một sự việc, hiện tượng cần có sự tính toán chính xác, khoa học, bố trí điều kiện tương tự như lúc xảy ra sự việc, hiện tượng đó. Khi các thí nghiệm có liên quan tới các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật khác nhau cần bố trí các chuyên gia, cán bộ chuyên môn theo những lĩnh vực khoa học, kỹ thuật tương ứng tham gia. Ngoài ra, cần có phương án đề phòng và khắc phục những thiệt hại về người hoặc tài sản do thực nghiệm có thể gây ra.

2.4 Xác định diễn biến của những tình tiết cụ thể của sự việc xảy ra

Đây là loại thực nghiệm điều tra được tiến hành khi cần kiểm tra lời khai của bị can, người làm chứng, người bị hại… về quá trình diễn biến của sự việc xảy ra nói chung hoặc của những tình tiết cụ thể của nó.

Khi tiến hành loại thực nghiệm dỉều ưa này, cơ quan điều tra có thể làm rõ diễn biến của sự việc xảy ra và xác định sự việc đó có thể diễn ra đúng như mô tả của bị can, người làm chứng… hay không. Để đạt được mục đích trên, khi áp dụng loại thực nghiệm điều tra này, cơ quan điều tra cần tái tạo lại đầy đủ các điều kiện, hoàn cảnh tương tự như khi sự việc, hiện tượng cần kiểm tra đã diễn ra trước đây trong hiện thực.

2.5 Xác định quá trình hình thành dấu vết của sự việc xảy ra

Đây lă loại thực nghiệm điều tra ít được sử dụng trong thực tế và chỉ được tiến hành khi cần kiểm tra hoặc xác định: Bằng cách nào, các dấu vết của sự việc xảy ra đã xuất hiện trên các vật mang vết; đối tượng cụ thể nào đó có thể để lại loại dấu vết này hay không. Sau khi tiến hành thực nghiệm điều tra và thu được dấu vết thực nghiệm, điều tra viên không tiến hành truy nguyên đối tượng đã để lại dấu vết đó mà chỉ xác định: Đối tượng trên có cần gửi đi giám định hay không hoặc dùng kết quả của thực nghiệm điều tra để xây dựng các giả thuyết của mình.

3. Mục đích của thực nghiệm điều tra

3.1 Kiểm tra những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được về vụ án

Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, có thể áp dụng nhiều phương pháp để kiểm tra chứng cứ như: So sánh chúng với nhau, thu thập chứng cứ mới, nghiên cứu nhân thân của bị can, người làm chứng … Chứng cứ cũng có thể kiểm tra bằng con đường thử nghiệm – một hình thức “thử thách” để xác định giá trị thực của chúng. Trong thực tế điều tra, thực nghiệm điều tra được sử dụng rộng rãi như là một phương tiện hữu hiệu để kiểm tra chứng cứ. Qua thực nghiệm điều tra, điều tra viên có thể xác định được mức độ tin cậy và giá frị xác thực của những tình tiết được phản ánh trong lời khai của những người tham gia tố tụng như bị can, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng hoặc của những vật chứng khác nhau đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.

3.2 Kiểm tra và đánh giá các giả thuyết điều tra

Khi tiến hành thực nghiệm điều tra để kiểm tra các giả thuyết điều tra, điều tra viên không nhằm mục đích kiểm tra chứng cứ riêng lẻ nào đó hoặc tổng hợp các chứng cứ đã thu thập được mà kiểm tra những nhận định, phán đoán hoặc những giải thích của mình được xây dựng dựa trên những chứng cứ đó hoặc những tài liệu trinh sát đã thu thập được.

3.3 Thu thập những tài liệu, chứng cứ mới

Thực nghiệm điều tra là một biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự. Vì vậy, cũng như các biện pháp điều tra khác được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, nó cũng được sử dụng như là một phương tiện để thu thập chứng cứ (Xem: Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự).

Kết quả của thực nghiệm điều tra khẳng định hoặc phủ định sự tồn tại của một tình tiết nào đó trong vụ án hình sự, khẳng định hoặc phủ định những nhận định, phán đoán (giả thuyết) của điều tra viên về vụ án nói chung và về các tình tiết cụ thể của nó. Những tình tiết đã được kiểm tra, những đồ vật, tài liệu được phát hiện có thể trở thành chứng cứ trong vụ án đó. Kết quả thực nghiệm điều tra thường không tạo ra chứng cứ mới mà chỉ phát hiện ra và xác lập chúng.

3.4 Phát hiện những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đề xuất các biện pháp phòng ngừa

Kết quả thực nghiêm điều tra giúp cơ quan điều tra phát hiện được những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở đó, cơ quan điều tra sẽ yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp về tổ chức hoặc kỹ thuật để khắc phục và ngăn ngừa, không cho những vụ án tương tự xảy ra.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)