Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kì bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động? Không chỉ xảy ra trong thời gian làm việc, gắn với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động, tai nạn lao động còn được xác định bao gồm cả những trường hợp bị tai nạn trong thời gian nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh, chuẩn bị và kết thúc công việc tại nơi làm việc. Thời gian và địa điểm xảy ra tai nạn phải đảm bảo sự họp lí (xem: Khoản 8 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 và Điều 12 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP và Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014).

Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động cố hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động. Bệnh nghề nghiệp có thể phát sinh trong và sau quâ trình lao động. Người lao động được coi là mắc bệnh nghề nghiệp khi trực tiếp làm việc hoặc tiếp xúc với các yếu tố có hại của môi trường làm việc, bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp được cơ quan có thẩm quyền ban hành (Xem thêm:Danh mục 34 bệnh nghề nghiệp ban hành kèm theo Thông tư số 15/2016/TT- BYT ngày 15/5/2016).

Pháp luật lao động ghi nhận trách nhiệm của chủ sử dụng lao động trong trường hợp người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Theo đó, người lao động phải kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động, thanh toán chi phí đồng chi trả và những chi phí y tế không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế, thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người không tham gia bảo hiểm y tế. Trong thời gian người lao động phải nghỉ việc để điều trị, người sử dụng lao động phải ứả đủ tiền lương cho người lao động theo hợp đồng. Người sử dụng lao động cũng phải bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp áp dụng với những người bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên, mức bồi thường phụ thuộc vào lỗi và mức suy giảm khả năng lao động (xem: Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015). Pháp luật còn quy định cụ thể về thời hạn bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày có kết luận của hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn chết người. Quy định này nhằm đảm bảo việc trợ cấp, bồi thường kịp thời hỗ trợ được người lao động trong việc chi trả các chi phí y tế và bồi dưỡng sức khoẻ (xem: Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015). Đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, họ còn được hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định (xem: Xem thêm: Điều 168 Bộ luật lao động 2019). Đảm bảo quyền lợi cho người lao động đối với trường họp người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà người sử dụng lao động chưa/không tham gia BHXH thì người sử dụng lao động phải trả khoản tiền tương ứng với chế độ quy định của Luật BHXH. Việc chi trả do các bên thỏa thuận, có thể thực hiện một lân hoặc hàng tháng.

Ngoài việc chi trả các chi phí và bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ hưởng BHXH cho người lao động, người sử dụng lao động còn phải thực hiện việc giới thiệu người lao động đi xác định mức suy giảm khả năng lao động, bố trí thời gian cho người lao động thực hiện phục hồi chức năng trong và sau điều trị nếu cần thiết. Khi quay trở lại làm việc, người sử dụng lao động có trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp với sức khoẻ của người lao động (xem: Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015).

Từ góc độ quản lí, pháp luật lao động ghi nhận hách nhiệm thống kê, báo cáo tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và cả sự cố kĩ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng. Đối với tai nạn lao động, người sử dụng lao động phải khai báo ngay với thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi xảy ra tai nạn chết người và tai nạn làm bị thương từ 02 người lao động trở lên và sự cố nghiêm trọng; có trách nhiệm điều tra đối với tai nạn lao động nhẹ, tai nạn lao động nặng làm bị thương 01 người lao động và phải mở sổ thống kê và định kì 06 tháng, hằng năm báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lao động. Đối với bệnh nghề nghiệp, người sử dụng lao động phải lập hồ sơ sức khoẻ đối với người lao động bị bệnh nghề nghiệp và định ki 6 tháng, hằng năm báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế, lao động.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)