1. Những ảnh hưởng tiêu cực của các rào cản kỹ thuật thương mại

Cộng đồng thương mại quốc tế rõ ràng đã ghi nhận ảnh hưởng tiêu cực ngày càng tăng của các rào cản kỹ thuật đối với thương mại quốc tế. Nhiêu công trình lý luận và hoạt động thực tiễn đã hướng vào việc phát triển những phương thức và giải pháp ngăn chặn và loại bỏ các rào cản này. Chính bản chất của các rào cản kỹ thuật đối với thương mại cũng xác định các biện pháp loại bỏ chúng. Sẽ có thể tránh được các rào cản do những đòi hỏi khác nhau về sản phẩm tại các nước khác nhau nếu thay vì các đòi hỏi khác nhau của các quốc gia, tất cả các nước cùng sử dụng các đòi hỏi giống nhau đã được nhất trí trên phạm vi quốc tế. Việc đánh giá sự phù hợp làm lặp đi lặp lại cũng có thể được bớt giảm nếu các nước công nhận các kết quả đánh giá của nhau.

Tuy nhiên, các điều kiện khí hậu, những thói quen dinh dưỡng, các điều kiện môi trường, các truyền thống công nghệ và giai đoạn phát triển kinh tế ở mỗi nước đều khác nhau tới mức là những đòi hỏi chung hoàn toàn đơn giản về sản phẩm là không có tính khả thi trong nhiều trường hợp. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là tình hình hoàn toàn không có hy vọng. Nếu những đòi hỏi được quốc tế thỏa thuận là không có tính khả thi trong một số trường hợp, thì trong nhiều trường hợp hơn chúng lại có thể hoàn toàn khả thi. Và ngay tại nơi mà các đòi hỏi đó không có tính khả thi, thì các biện pháp như xây dựng một thuật ngữ chung hoặc nêu những đòi hỏi cụ thể về công dụng, công suất hơn là nêu đặc điểm bề ngoài. Điều này sẽ làm giảm đáng kể ảnh hưởng gây ra do những đòi hỏi khác nhau về sản phẩm tới thương mại.

Ngoài ra, xảy ra khó khăn trong việc áp dụng sự công nhận lẫn nhau đối với các kết quả đánh giá sự phù hợp một phần là do các thủ tục đánh giá lại khác nhau và thậm chí xung đột nhau và một phần vì do thiếu tin tưởng nhau. May mắn là việc hài hòa quốc tế các thủ tục đánh giá sự phù hợp thường dễ hơn nhiều so với việc hài hòa các đòi hỏi về sản phẩm. Đã có nhiều tiến bộ đáng kể’ đạt được về phương diện này trong 20 năm qua .

Vấn đề thiếu tin tưởng đã được khắc phục bằng yiệc phát triển niềm tin. Điều đó là muốn nói tới những đòi hỏi chung về năng lực và độ tin cậy đối với các cơ quan đánh giá sự phù hợp cũng như tới các thủ tục chung để đánh giá những yếu tố này. Những đòi hỏi chung đối với các cơ quan tiến hành đánh giá tín nhiệm cũng đã được phát triển và nhất trí với kết quả rằng các điều kiện xây dựng sự tin tưởng lẫn nhau đã được nâng cao đáng kể. cả hai bên khi đó sẽ nhận thức được rằng năng lực và độ tin cậy của các cơ quan đánh giá sự phù hợp của bên kia được đánh giá và xác nhận phù hợp với những đòi hỏi và thủ tục giống như tại nước mình.

Những khó khăn trong hoạt động hài hòa hóa quốc tế và công nhận lẫn nhau đã dẫn tời kết luận rằng việc ngăn chặn rào cản kỹ thuật đối với thương mại dễ hơn việc loại bỏ. Khi các quy định kỹ thuật quốc gia, các tiêu chuẩn và các thủ tục đánh giá sự phù hợp được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, việc sửa đổi chúng luôn là một thủ tục rườm rà, và có thể cần phải đương đầu với những trở ngại về kỹ thuật, kinh tế và chính trị. Khi có thể, nhũng yêu cầu của thương mại quốc tế sẽ được tính tới trước khi các quy tắc quốc gia được chấp nhận.

Điều này đã dẫn tới sự phát triển các.thủ tục thông báo cụ thể, nhờ đó mà các nước thông báo trước dự kiến về các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn và các thủ tục đánh giá sự phù hợp. Trong một thời gian đã nhất trí, các nước khác khi ấy có cơ hội bình luận về các biện pháp dự định này và đề nghị các cuộc tham vấn nếu các biện pháp này để dọa dẫn tới các rào cản thương mại.

Một số văn bản quốc tế quan trọng nhất về vấn đề tháo gỡ những rào cản kỹ thuật đối với thương mại được trình bày dưới đây.

2. Một số quy định về tháo rỡ các rào cản kỹ thuật đối với thương mại

2.1. Các hiệp định WTO/GATT

Các văn bản cam kết quốc tế duy nhất về xử lý các rào cản kỹ thuật đối với thương mại bao gồm hai hiệp định: Hiệp định về Các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (Hiệp định TBT) và Hiệp định về việc ứng dụng các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch Thực vật (Hiệp định SPS) ký trong thời gian diễn ra vòng đàm phán thương mại đa phương Uruguay. Cả hai hiệp định này là những thỏa thuận nằm trong Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) 1994.

Hiệp định TBT được xây dựng trên cơ sở một thỏa thuận riêng rẽ được ký vào năm 1979 sau khi kết thúc vòng đàm phán GATT tại Tokyo. Những nguyên tắc cơ bản này, cũng như một số các điều khoản chi tiết đều đã có trong hiệp định này.

Mục tiêu chung của các Hiệp định TBT và SPS là nhằm bảo đảm rằng các chính phủ duy trì chủ quyền để theo đuổi các mục tiêu chính đáng như bảo vệ sức khỏe song đồng thời ngăn chặn việc sử dụng sai chủ quyền vào các mục đích bảo hộ hoặc để tạo ra các rào cản không cần thiết đối với thương mại quốc tế. Bảo vệ các những người tiêu dùng trong nước khỏi những rủi ro sức khỏe do hàng nhập khẩu gây ra là điều hoàn toàn chính đáng, song bảo vệ các nhà sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh nước ngoài là điều bất hợp lý.

Phạm vi của hai hiệp định này được định nghĩa khác nhau. Hiệp định TBT chỉ bao trùm các biện pháp cụ thể, như các quy định kỹ thuật, cầc tiêu chuẩn và các thủ tục đánh giá sự phù hợp cho mọi mục đích Hiệp định soc chỉ bao trùm những mục đích đã nêu trong Hiệp định này, trừ tất cả các loại biện pháp. Trong trường hợp trùng lặp, Hiệp định SPS sẽ được áp dụng (xem minh họa 1).

Hiệp định SPS bao gồm một danh sách chi tiết các mục đích thuộc phạm vi của Hiệp định và theo định nghĩa được xem là chính đáng. Trong khi đó, Hiệp định TBT có một danh sách không chi tiết các mục tiêu chính đáng như an ninh quốc gia, ngăn chặn các thủ đoạn lừa gạt, bảo vệ sức khỏe hay an toàn cho người; đời sống hay sức khỏe cho của động, thực vật và bảo vệ môi trường. Thêm vào đó, các chính phủ có quyền xác định mức bảo hộ được xem là phù hợp.

Căn cứ theo các Hiệp định này, một mục tiêu chính đáng hay mức độ bảo hộ là vấn đề không phải tranh cãi. Ngoại lệ duy nhất đối với quy tắc này nằm trong đoạn 5.5 của Hiệp định SPS đòi hỏi sự nhất quán xác định khi làm rõ mức độ bảo hộ. Theo Hiệp định TBT, một mục tiêu không được liệt kê với tư cách hợp pháp có thể bị coi là không hợp pháp.

Để ngăn chặn việc lạm dụng chủ quyền các chính phủ, cả hai bản hiệp định này đã đề ra một loạt các nguyên tắc. Đó là các điều khoản về tính minh bạch (các điểm chỉ dẫn và các thủ tục thông báo); lý giải sự cần thiết; những hạn chế thương mại không cần thiết; tính tương đương; các tiêu chuẩn quốc tế; các thủ tục đánh giá sự phù hợp; căn cứ khoa học và đánh giá rủi ro (chỉ có trong Hiệp định SPS). Hiệp định TBT quy định việc chống phân biệt đối xử, nhưng SPS lại cho phép phân biệt đối xử khi việc này được xem là đúng đắn do các điều kiện dịch bệnh khác nhau ở các nước khác nhau.

Các biện pháp không phù hợp với các điều khoản này có thể gây ra tranh cãi.

Hai hiệp định TBT và SPS bao gồm cả các biện pháp bắt buộc và tự nguyện cũng như các biện pháp do các cơ quan chính quyền trung ương và địa phương ban hành. Hiệp định TBT thậm chí bao gồm cả các biện pháp do các tổ chức phi chính phủ liên quan đưa ra.

Bên cạnh các điều khoản chính về hoạt động, hai bản Hiệp định này cũng có những điều khoản về hỗ trợ kỹ thuật và về quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các nước đang phát triển.

Việc diễn giải sự ràng buộc pháp lý về việc thực hiện đúng các Hiệp định TBT và SBS được quy định bởi thủ tục giải quyết tranh chấp WTO. Điều này độc lập với bất kỳ hoạt động nào của các ủy ban này.

Ảnh hưởng chính của các Hiệp định TBT và SPS đối với thương mại quốc tế không còn nghi ngờ gì nữa đó là sự ngăn chặn các rào cản kỹ thuật mối đối với thương mại. Điều này một phần đã đạt được bởi các điều khoản chi tiết và bao quát về thông báo, một phần vì các Hiệp định này đóng vai trò như “hạm đội sống”. Các chính phủ đã cố tránh việc đưa ra các biện pháp mà các chính phủ thấy là xung đột với những nghĩa vụ của mình theo Hiệp định. Tuy nhiên, rất khó đánh giá các chính phủ đã chủ động tới mức nào trong việc sửa đổi hệ thống pháp lý hiện hành cho phù hợp với các điều khoản của các Hiệp định TBT và SPS. Tuy nhiên, hai bản Hiệp định này cũng đã được sử dụng làm cơ sở để khởi phát các thủ tục giải quyết tranh chấp.

Hàng rào thương mại là gì? Thế nào là hàng rào kỹ thuật trong thương mại?

2.2. Công ước EFTA

EFTA đã tham gia tích cực vào việc phát triển các phương tiện nhằm ngăn chặn và loại bỏ các rào cản kỹ thuật đối với thương mại ở hai lĩnh vực: các thủ tục thông báo và công nhận lẫn nhau về các kết quả đánh giá tính phù hợp. Trên thực tế, EFTA đã dẫn đầu về các phương tiện này ở cấp độ toàn cầu. EFTA để các tổ chức chuyên môn của châu Âu và quốc tế đảm trách công tác hài hòa hóa các đòi hỏi sản phẩm quốc gia, song vẫn hỗ trợ công việc của các tổ chức này.

Các nước EFTA đã khởi xướng một thủ tục thông báo đối với bản thảo quy định kỹ thuật trên cơ sở tự nguyện vào năm 1964, thủ tục này được chính thức hòa bằng việc điều chỉnh Hiệp định EFTA vào năm 1987. Hai năm sau, thủ tục này còn được gắn kết với thủ tục thông báo phù hợp trong phạm vi EC vốn đã có hiệu lực vào năm 1984. Thủ tục này lại là cơ sở cho hệ thống thuộc EEA và thường xuyên được sử dụng như được nêu trong Hộp 1. Do vậy, thủ tục thông báo EFTA là mẫu cho cả GATT và EC khi hai tổ chức này để xướng các thủ tục thông báo

Hoạt động xúc tiến việc công nhận lẫn nhau những kết quả đánh giá sự phù hợp đã bắt đầu theo cách thực tiễn và tự nguyện. Các cơ quan có thẩm quyền liên quan trong phạm vi các nước EFTA đã nhất trí xây dựng cái gọi là các hệ thống EFTA. Các hệ thống này quy định những kết quả của các thủ tục đánh giá sự phù hợp được tiến hành ở nước xuất khẩu sẽ được chấp nhận là phù hợp với những đòi hỏi của nước nhập khẩu. Các hệ thống EFTA đã được thiết lập cho các bình áp suất; thiết bị tàu thủy; thiết bị khí đốt; các thiết bị nâng hạ; máy nông nghiệp và máy kéo; thiết bị đun sử dụng nhiên liệu lỏng; và các báo cáo đánh giá về các dược phẩm.

Do tính chất thử nghiệm nên một số hệ thống này hoạt động thành công nhưng một số khác lại không thành công. Trong số các hệ thống hoạt động thành công có những hệ thống về các bình áp lực, thiết bị tàu thủy, máy kéo nông nghiệp và dược phẩm.

Chỉ có hai loại sản phẩm là kim loại quý và dược phẩm được những công ước liên chính phủ ký kết ràng buộc về mặt pháp lý. Cả hai công ước này đã gặt hái được nhiều thành công và thu hút được sự quan tâm của một loạt các nước ngoài EFTA. Công ước Hall­marking có các bên tham gia ký kết là Áo, CH Séc, Đan Mạch, Phần Lan, Ai len, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Anh trong khi Công ước Giám định Dược phẩm ngoài các nước kê trên còn có Ôxtrâylia, Bỉ, Pháp, Đức, Hungary, Iceland, Italia, Liechtenstein và Rumani.

Nhằm bổ sung vào Công ước Giám định Dược phẩm, một Hệ thống Hợp tác Giám định Dược phẩm được thành lập năm 1995 mở rộng cả quy mô và sự tham gia của các nước thứ ba. Hệ thống này hoạt động cùng với Công ước và đã thu hút sự tham gia của các cơ quan có thâm quyền của các nước nêu trên cũng như của các nước Canada, CH Slovakia và Singapore.

Van đề tin tưởng lẫn nhau chủ yếu được giải quyết bởi sự hợp tác chặt chẽ giữa một số lượng hạn chế các cơ quan quốc gia. Trong khuôn khổ Công ước Giám định Dược phẩm và Hệ thống Hợp tác Giảm định Dược phẩm có các lóp đào tạo quốc tế giành cho các giám định viên.

Trong năm 1988, các nước thành viên EFTA đạt được một thành tựu lớn bằng việc ký kết Công ước 1 ampere về Công nhận Lần nhau các Kết quả Kiểm tra và nhũng Bằng chúng Phù hợp. Đây là thành tựu toàn diện nhất và đạt tầm xa nhất, tạo cơ sở cho việc loại bỏ hoàn toàn các rào cản kỹ thuật đối với thương mại do các thủ tục đánh giá phù hợp giữa các nước EFTA. Tuy nhiên, không may là Công ước này chưa bao giờ thực sự có tác dụng vì đã mau chóng bị quá tải bởi các trường hợp phải giải quyết. Khi tất cả các nước thành viên EFTA, không kể Thụy Sỹ, gia nhập EEA cùng với EC, thì các nước này áp dụng hệ thống đánh giá sự phù hợp của EC. Hệ thống này sau đó thay thế Công ước Tampere.

Văn phòng TBT - Cục ĐTNĐ Việt Nam

3. Những thay đổi về rào cản thương mại khi Việt Nam là thành viên của WTO.

Ở thị trường trong nước, khi chưa gia nhập WTO Việt Nam cũng đã có các quy định thuộc nhóm “biện pháp kỹ thuật” (ví dụ Luật về tiêu chuẩn, Nghị định về ghi nhãn hàng hoá, Luật bảo vệ môi trường…). Khi Việt Nam gia nhập WTO, các quy định này tiếp tục được áp dụng. Điểm mới duy nhất là từ nay, việc ban hành hay áp dụng các biện pháp kỹ thuật tại Việt Nam bị ràng buộc bởi các nguyên tắc liên quan của WTO.

Tại các thị trường xuất khẩu, dù Việt Nam chưa hay đã là thành viên WTO thì hàng hoá Việt Nam khi xuất khẩu vẫn phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về kỹ thuật mà nước nhập khẩu đặt ra. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã có quy chế thành viên WTO, các doanh nghiệp Việt Nam có thêm các cơ hội để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong trường hợp các quy định liên quan của nước nhập khẩu vi phạm các nguyên tắc của WTO thông qua việc đề nghị Chính phủ can thiệp qua cơ chế giải quyết tranh chấp tại WTO.

Ngành thương mại quốc tế ra trường làm gì, dễ xin việc không?

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập)