1. Quy định về tiêu chuẩn và an toàn sản phẩm trong WTO

WTO có riêng hai hiệp định điều chỉnh mức độ an toàn của lương thực, sức khỏe và sự an toàn cho các loài động thực vật (Hiệp định SPS cũng như tiêu chuẩn kĩ thuật đối với một số sản phẩm (Hiệp định TBT) .

1.1.Các quy định về an toàn đối với lương thực, động vật và thực vật

Các quy tắc nền tảng nhằm đảm bảo cung ứng cho người tiêu dùng các sản phẩm lương thực an toàn đồng thời tránh việc sử dụng các quy định chặt chẽ về vệ sinh dịch tễ như một cái cớ để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước đưa vào một hiệp định chuyên biệt về an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ đối với động thực vật. Hiệp định này có tên là Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS) . Hiệp định SPS cho phép các nước xây dựng cho mình những tiêu chuẩn riêng song cũng quy định các tiêu chuẩn này phải có căn cứ khoa học . Các quy định về vệ sinh dịch tễ chỉ có thể được áp dụng trong chừng mực cần thiết để bảo vệ sức khỏe của con người và các loài động thực vật. Chúng cũng không được gây ra sự phân biệt đối xử tùy tiện hoặc vô căn cứ giữa các quốc gia có điều kiện giống hệt nhau hoặc tương tự như nhau . Các nước thành viên WTO, được khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn, định hướng hoặc khuyến nghị quốc tế sẵn có. Tuy vậy , các nước vẫn có thể thông qua những biện pháp sử dụng những chuẩn cao hơn nếu họ có cơ sở khoa học . Họ cũng có thể xây dựng những tiêu chuẩn khắt khe hơn dựa trên việc đánh giá hợp lí các rủi ro , với điều kiện phương pháp tiến hành phải chặt chẽ và không tùy tiện. Trong chừng mực nào đó , các nước này có thể áp dụng “nguyên tắc phòng ngừa” , cách tiếp cận theo kiểu ” an toàn là trên hết ” trong trường hợp chưa có căn cứ khoa học chắc chắn. Khoản 7 Điều 5 Hiệp định SPS cho phép các nước đưa ra các biện pháp ” phòng ngừa ” tạm thời .

Cũng theo Hiệp định này , các nước vẫn được áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau và các phương pháp kiểm hoá khác nhau . Nếu nước xuất khẩu chứng minh được rằng các biện pháp mà nước này áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu có cùng mức độ bảo vệ về vệ sinh dịch tễ với nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu về nguyên tắc phải chấp nhận các tiêu chuẩn và phương pháp mà nước xuất khẩu áp dụng . Hiệp định SPS còn có các điều khoản về thủ tục kiểm tra , giám định và công nhận độ an toàn . Chính phủ các nước phải thông báo trước những quy định mới hoặc được sửa đổi về vệ sinh dịch tễ mà mình sẽ áp dụng và thiết lập một cơ sở thông tin quốc gia. Hiệp định này bổ sung cho Hiệp định về những rào cản kĩ thuật đối với thương mại .

Bài học về thương mại và môi trường nhìn từ một vụ kiện trong WTO

1.2. Các quy định về kĩ thuật và tiêu chuẩn

Các quy định về kĩ thuật và các tiêu chuẩn công nghiệp đóng vai trò quan trọng nhưng mỗi nước lại đưa ra những quy định và tiêu chuẩn khác nhau . Việc có quá nhiều tiêu chuẩn khác nhau như vậy thường gây khó khăn cho các nhà sản xuất và xuất khẩu . Nếu các tiêu chuẩn được quy định một cách tùy tiện thì chúng có thể được sử dụng như là phương tiện bảo hộ . Do đó , các tiêu chuẩn kĩ thuật có thể trở thành những rào cản đối với thương mại. Hiệp định về những rào cản kĩ thuật đối với thương mại (Hiệp định TBT) có mục đích làm sao để các quy định pháp luật, tiêu chuẩn và quy trình thử nghiệm và công nhận không gây ra những trở ngại không cần thiết.

Hiệp định TBT thừa nhận quyền của các nước được đưa ra những chuẩn mực mà họ cho là thích hợp để bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người và động vật, để bảo tồn các loài thực vật, bảo vệ môi trường hay các quyền lợi khác của người tiêu dùng … Các nước thành viên Hiệp định này không bị cấm thông qua các biện pháp cần thiết để bảo đảm việc tuân thủ các chuẩn mực này. Để tránh có sự chênh lệch quá lớn, Hiệp định khuyến khích các nước áp dụng những tiêu chuẩn quốc tế khi chúng tỏ ra phù hợp.

Hiệp định TBT còn là bộ luật ứng xử trong việc soạn thảo, thông qua và áp dụng các tiêu chuẩn của các cơ quan trung ương của các nước thành viên; quy định cách thức để các chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ áp dụng các quy định riêng của mình; quy định về quy trình đánh giá sản phẩm tuân thủ các tiêu chuẩn của một nước. Hiệp định quy định không áp dụng các phương pháp thiên vị đối với các sản phẩm trong nước, khuyến khích các nước công nhận các quy trình xét nghiệm của nhau. Các nhà sản xuất và xuất khẩu cần phải được biết về các tiêu chuẩn mới được ban hành tại những thị trường mà họ đang tìm cách thâm nhập. Để việc tiếp cận các thông tin này được dễ dàng, các nước thành viên WTO phải thiết lập các điểm thông báo quốc gia có tính chất quốc tế

2. Thị trường nội bộ của các cộng đồng Châu Âu

Mục đích của WT0/GATT và EFTA là ngăn chặn và loại bỏ một số rào cản kỹ thuật đối với thương mại. Vào năm 1985 khi EC quyết định hoàn thành thị trường nội bộ vào năm 1993, điều đó bao gồm cả việc ngăn chặn và loại bỏ các rào cản kỹ thuật đối với thương mại giữa các Nhà nước Thành viên. Kể từ khi ra đời năm 1957, EC đã có một loạt các chương trình nhằm loại bỏ các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, và đã đạt được mục tiêu này đối với một loạt các chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên, chỉ năm 1985 một chương trình toàn diện với các thời hạn mục tiêu được nhất trí. Chương trình này hiện nay đã hoàn tất và một thị trường nội bộ trong cộng đồpg châu Âu được kiến tạo, song còn nhiều việc cần phải làm để đưa chương trình này vào hoạt động đầy đủ.

Chiến lược của EC về việc thành lập thị trường nội bộ được dựa trên 4 yếu tố sau:

– Hài hòa hóa các đòi hỏi chủ yếu.

– Chấp nhận lẫn nhau về các đòi hỏi khác

– Công nhận lẫn nhau về các kết quả đánh giấ sự phù hợp.

– Hệ thống thông bấo

Việc hài hòa hóa các đòi hỏi chủ yếu về sản phẩm được thực hiện bằng việc soạn thảo các chỉ thị. Không giống như luật, các chỉ thị này bao gồm nghĩa vụ của các Nhà nước Thành viên về việc xây dựng luật pháp quốc gia phù hợp trong một thời hạn đã thỏa thuận, thường từ 1 tới 2 năm. Đối với pháp chế kỹ thuật, có hai loại chỉ thị: giải pháp theo ngành hàng (giải pháp cũ) và từ năm 1985, giải pháp mới. Giải pháp mới là giải pháp hệ thống đầu tiên cho pháp chế kỹ thuật trong phạm vi EC. Toàn bộ các chỉ thị theo phương án này có cùng một cấu trúc, các điều khoản cơ bản, hệ thống đánh giá sự phù hợp và nhãn mác EC.

Chỉ có những đòi hỏi an toàn cơ bản (hay những đòi hỏi khác) được làm rõ trong các chỉ thị này. Để thực hiện những đòi hỏi này, đã dẫn chiếu tới các tiêu chuẩn châu Âu đã được hài hòa hóa, việc này vẫn là tự nguyện. Các nhà sản xuất có thể chế tạo ra sản phản sai với tiêu chuẩn châu Âu, song nếu làm vậy, họ phải chứng minh rằng các sản phẩm này đáp ứng được những đòi hỏi chủ yếu trong chỉ thị.

Trong giải pháp ngành hàng, mỗi chủng loại sản phẩm có hình thức chỉ thị riêng. Không có cấu trúc chung hay các điều khoản cơ bản về hệ thống đánh giá sự phù hợp và cũng không có nhãn mác EC. Toàn bộ những đòi hỏi đều được ghi rõ trong các chỉ thị và trong những dẫn chiếu tới tiêu chuẩn là ngoại lệ. Đối với mỗi chủng loại sản phẩm, thường có một chỉ thị khung với một loạt các chỉ thị bổ sung, các sửa đổi và cập nhật về mặt kỹ thuật.

Sự chấp nhận lẫn nhau về các đòi hỏi khác dựa trên nguyên tắc Cassis-de-Dijon, một quyết định quan trọng của Tòa án Tư pháp châu Âu kết luận rằng bất kỳ sản phẩm nào đã có thể được tiếp thị hợp pháp tại một trong nhà nước thành viên thì đều có quyền như vậy ở các nước thành viên khác. Ngoại lệ đối với nguyên tắc này sẽ được áp dụng nếu nước thành viên nhập khẩu có thể mô tả rằng sản phẩm đó gây ra rủi ro rõ rêt đối với sức khỏe con người, động vật và thực vật, hoặc đối với môi trường. Trong các trường hợp như vậy, việc soạn thảo hay cập nhật chỉ thị nói chung được tiến hành..

Xu hướng bảo hộ thương mại trên thế giới và kiến nghị đối với Việt Nam

Việc công nhận lẫn nhau kết quả đánh giá sự phù hợp được quy định đối với tất cả các sản phẩm, song theo cách khác căn cứ vào hai loại chỉ thị nêu trên. Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, kiểm soât thị trường là trách nhiệm duy nhất của các nhà chức trách của nước nhập khẩu.

Các thủ tục thông báo tưcmg tự như các thủ tục đang được áp dụng theo các Hiệp định TBT và SPS thuộc WTO/GATT, song tỉ mỉ hơn. Chỉ có các biện pháp có thế tạo ra tác động đánh kể tới thương mại quốc tế và không phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế liên quan sẽ được thông báo theo các Hiệp định này. Tuy nhiên, trong phạm vi EC tất cả những quy định kỹ thuật mới hay sửa đổi đều sẽ được thông báo. Những nghĩa vụ chưa xử lý được trong Hệ thống EC lại còn nhiều hơn.

Theo ước tính gần đây, việc di chuyên tự do hàng hóa đã được bao đảm bằng các chỉ thị theo ngành hàng là 30% toàn bộ sản lượng trong phạm vi EC và 20% theo các chỉ thị giải pháp Mới. Tỉ lệ thuộc giải pháp mới gia tăng khi các chỉ thị theo ngành hàng dần được thay thế bởi các chỉ thị Giải pháp Mới. Các sản phẩm tương đưcmg 25% tổng sản lưọng chỉ chịu sự điều chỉnh của các quy định quốc gia và việc di chuyển tự do các sản phẩm này được bảo đảm bởi nguyên tắc Cassis-de-Dijon. Phần còn lại, nghĩa là 25% tổng sản lượng không do EC cũng như luật quốc gia nào điều chỉnh.

3. Vai trò của các tổ chức phi chính phủ và một số tổ chức liên chính phủ trong việc thực hiện TBT và SPS.

Chức năng hoạt động của các Hiệp định TBT và SPS thuộc WT0/ GATT phụ thuộc chủ yếu vào các tiêu chuẩn quốc tế liên quan hiện có. Căn cứ theo các Hiệp định này, các nước thành viên WTO sẽ xây dựng các biện pháp quốc gia dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế liên quan. Một nước thành viên có thể sai chệch khỏi tiêu chuẩn quốc tế, song trong trường hợp đó, nước này buộc phải biện hộ cho sự sai trệch này. Nếu không có một tiêu chuẩn quốc tế, thì không thể có một cơ sở chung để so sánh các biện pháp quốc gia. Tính hiệu lực của Hiệp định này sẽ không mạnh.

Những tố chức xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan nhất đối với Hiệp định TBT là Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO), ủy ban Kỹ thuật Điện Quốc tế (IEC) và Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU). ISO và IEC là những tổ chức phi chính phủ trong khi ITU là tổ chức liên chính phủ.

ISO có thêm vai trò hỗ trợ WT0 trong việc thực hiện bộ luật thực hành tốt cho việc chuẩn bị, chấp nhận và áp dụng các tiêu chuẩn kèm theo Hiệp định TBT.

Đa số những tổ chức xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế liên quan tới Hiệp định SPS là các cơ quan liên chính phủ: ủy ban Luật Dinh Dưỡng (CAC), Cơ quan Phòng Dịch Quốc tế (OIE), và Công ước Bảo vệ Cây trồng Quốc tế (IPPC). So với Hiệp định TBT, thì Hiệp định SPS có mối quan hệ chặt chẽ hơn với các tổ chức xây dựng các tiêu chuẩn, và cả ba tổ chức này đều được nêu tên trong Hiệp định SPS.

Sự vận hành của thị trường nội bộ EC cũng phụ thuộc vào các Tiêu chuẩn châu Âu (EN) hiện có; việc thực hiện các chỉ thị giải pháp mới được mô tả trong các EN liên quan. Nếu không có những tiêu chuẩn đó, việc thực hiện sẽ cực kỳ khó khăn nếu không phải là không có thể. EN do các tổ chức phi chính phủ soạn thảo: ủy ban Tiêu chuẩn châu Âu (CEN), ủy ban châu Âu về Tiêu chuần hóa Kỹ thuật Điện (CENELEC) và Viện Tiêu chuẩn Viễn thông châu Âu (ETSI).

Để đưa ra những tiền đề cần thiết cho sự công nhận lẫn nhau các kết quả đánh giá sự phù hợp, vai trò của ISO và IEC có ý nghĩa quan trọng. ISO và IEC đã soạn thảo một loạt hướng dẫn về việc vận hành các cơ quan đánh giá sự phù hợp cũng như đánh giá năng lực và độ tin cậy của các cơ quan này. Phần lớn tài liệu hướng dẫn này đều dựa trên công việc tiên phơng do Hội nghị Tín nhiệm Thí nghiệm Quốc tế (ILAC) thực hiện.

4. Những thách thức trong giai đoạn hiện nay

Sự cần thiết bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người, động thực vật và môi trường sẽ không ngừng giảm đi. Có thể dễ dàng dự đoán rằng trong tương lai các chính phủ sẽ ban hành cảc quy định kỹ thuật điều chỉnh thêm ngày càng nhiều sản phẩm hơn và cũng nghiêm ngặt hơn. Vì vậy, nhu cầu về các tiêu chuẩn quốc tế tiếp tục tăng. Vấn đề thách thức chính hiện nay là làm thế nào để rút ngắn thời gian soạn thảo và chấp thuận các tiêu chuẩn này mà không làm giảm chất lượng của văn bản.

Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau đánh giá sự phù hợp cho tới nay hầu hết là trên cơ sở song phương. Tuy nhiên, bằng hiệp định song phương thì không thể để giải quyết những vấn đề công nhận lẫn nhau, số các thỏa thuận cần thiết thường là không thể quản lý. Vấn đề chính hiện này là cần phát triển các thỏa thuận đa bên và toàn cầu mà trong đó tất cả các nước có thể tham gia một cách bình đẳng mà không làm giảm chất lượng việc đánh giá sự phù hợp.

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập)