Tuy nhiên, người thừa kế theo di chúc cũng cần phải có những điều kiện như quy định ở Điều 613 Bộ luật dân sự, cụ thể là: Nếu người được chỉ định làm thừa kế là cá nhân thì người đó phải còn sông vào thời điểm mở thừa kế, vì chỉ có những người còn sống thì mới có năng lực pháp luật dân sự để hưởng quyền. Tuy nhiên, người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết thì họ vẫn là người thừa kế theo di chúc của người để lại di sản.

Trường hợp người thừa kế theo di chúc là pháp nhân phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, vì nếu pháp nhân chấm dứt hoạt động trước thời điểm mở thừa ké thì năng lực chủ thể của pháp nhân cũng chấm dứt, cho nên không còn tư cách hưởng di sản. Các trường hợp trên cần chú ý một số vấn đề sau:

– Đối với người thừa kế là thai nhỉ.

Nếu người lập di chúc để lại di sản cho người đã thành thai là con của cha, mẹ được xác định tên cụ thể thì khi người đó sinh ra và còn sống phải là con của người cha, mẹ đã được xác định trong di chúc.

Nếu người để lại di sản không nói rõ trong di chúc tên cha của người đã thành thai thì chỉ cần xác định mẹ của người đã thành thai khi người để lại di sản chết. Còn cha của người đó là ai không ảnh hưởng đến việc xác định người đó là người thừa kế của người để lại di sản (như trường hợp người không có chồng mà có con).

– Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, cho nên pháp nhân cần phải có năng lực chủ thể, tức là có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Nếu pháp nhân còn tồn tại vào thơi điểm mở thừa kế và thời điểm chia di sản thì pháp nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc. Nếu pháp nhân còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế nhưng không còn tồn tại vào thời điểm chia di sản (trong thời hiệu thừa kế) thì cần phải áp dụng các thủ tục tố tụng dân sự theo quy định để bảo vệ quyền lợi của pháp nhân.

Người thửa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Pháp luật quy định người để lại di sản có quyền truất quyền hưởng di sản hoặc không cho người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản. Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích của một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc quy định tại Điều 644 Bộ luật dân sự. Pháp luật quy định những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung cùa di chúc gôm: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, những người này phải được hưởng 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật nếu bố, mẹ không cho hưởng hoặc cho hưởng nhưng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật.

Cách tính hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật cho người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc xác định như sau:

– Nếu không có di chúc, thì một suất được chia theo pháp luật cho người thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng là bao nhiêu nhân với hai phần ba của suất đố.

– Những người sau đây không tính vào để nhân suất hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật: Người không có quyền hưởng theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015; Người từ chổi quyền hưởng theo quy định tại Điều 620 Bộ luật dân sự; người thừa kế theo pháp luật trong hàng được hưởng như đã chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản mà không có trường hợp thừa kế thế vị.

Ví dụ 1: A là chồng của B, có hai người con chung là c, D (đã thành niên). A và c chết cùng một thời điểm. A để lại dí chúc truất quyền thừa kế của B và cho D toàn bộ di sản. B được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Di sản của A có 90 triệu đồng. Vậy B hưởng là 90 triệu đồng chia cho hai suất nhân với hai phần ba của một suất và được hưởng 30 triệu đồng; D hưởng theo di chúc được là 60 triệu đồng.

Ví dụ 2: Cũng theo sự kiện trên, nhưng c có con là E, thì B được hưởng là 90 triệu chia cho 3 suất nhân với (x) 2/3 = 20 triệu; D được 70 triệu theo di chúc.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)