1. Khái niệm Câu lạc bộ Luân Đôn
Câu lạc bộ Luân Đôn là diễn đàn đa phương xử lí nợ thương mại giữa nước vay nợ (thường là các nước đang phát triển) với các ngân hàng chủ nợ.
Câu lạc bộ London bản chất của nó không phải là câu lạc bộ có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, cũng không có trụ sở đặt tại London mà đó là một thuật ngữ được dùng để mô tả quá trình đàm phán về tái cấu trúc nợ giữa các ngân hàng thương mại phương Tây và chính phủ các nước đang phát triển vào cuối những năm 1970 đầu những năm 1980. Quá trình tái cấu trúc nợ này có sự tham gia của 1000 ngân hàng.
2. Nguồn gốc của Câu lạc bộ Luân Đôn
Có 3 điểm đáng chú ý để cho biết nguồn gốc của cụm từ “Câu lạc bộ Luân Đôn”:
– Có nhiều cuộc họp đã diễn ra tại Luân Đôn để bàn về vấn đề nợ của các nước như Zaire, Thổ Nhĩ Kỳ, Sudan, Ba lan
– Luật pháp được lựa chọn là luật của nước Anh vì đây được xem là luật điều chỉnh hầu hết các khoản vay tại thị trường tiền tệ Châu Âu
– Lãi suất liên ngân hàng Luân Đôn được sử dụng như là tiêu chuẩn để xác định lãi suất vay của các khoản nợ quốc tế. Các yếu tố cốt lõi của quá trình London Club là Ủy ban Ngân hàng tư vấn (BAC), hoặc Ban chủ nợ. Các BAC là một nhóm các ngân hàng có từ 5-20 đại diện thay mặt cho tất cả các ngân hàng bị ảnh hưởng bởi việc tái cơ cấu đứng ra thương lượng với các chính phủ. Mục đích chính của nó một mặt là khắc phục vấn đề phối hợp giữa hàng trăm ngân hàng cá nhân và mặt khác là để việc tái cơ cấu tập trung nợ sẽ được các ngân hàng lớn và các cố vấn pháp lý và tài chính của họ dàn xếp. Các thành viên của ủy ban ngân hàng thường là các quan chức cấp cao của các ngân hàng lớn. Tuy nhiên, các ủy ban ngân hàng lớn chỉ chiếm 25-35 % tổng số nợ nước ngoài của một quốc gia vay các ngân hàng thương mại trong những năm 1980 và 1990. Phần còn lại được phân tán bởi một nhóm các ngân hàng thương mại khác trong một loạt các quốc gia. Bảng số liệu sau cho thấy một cái nhìn tổng quan về cấu trúc của BACS trong đàm phán lại nợ được lựa chọn, cũng như tổng số ngân hàng trong mỗi hợp đồng.
3. Nguyên tắc hoạt động
Đàm phán London Club có xu hướng tiến hành như sau: Trong giai đoạn đầu của khủng hoảng tài chính, chính phủ mắc nợ sẽ liên lạc với một hoặc hai chủ nợ lớn nhất thường là các ngân hàng lớn để yêu cầu họ tổ chức và chủ trì một ban chỉ đạo. Trong những năm 1970 và 1980, chính phủ mắc nợ dễ dàng xác định chủ nợ lớn của họ, vì hầu hết hoạt động cho vay diễn ra thông qua các khoản vay hợp vốn và có hầu như không có giao dịch trên thị trường thứ cấp. Ngoài ra, các ngân hàng cũng thông báo về những người giữ các khoản nợ, vì vậy giao tiếp đó là dễ dàng hơn so với các thị trường trái phiếu phân tán hiện nay.
Một khi các ủy ban của các ngân hàng lớn đã được thành lập, đại diện ngân hàng sẽ gặp các quan chức chính phủ nước này một cách thường xuyên, thường trong khoảng thời gian hàng tháng hoặc hàng tuần. Những cuộc đàm phán thường được bao phủ toàn bộ các biện pháp giải quyết cuộc khủng hoảng, bao gồm cả việc cung cấp các nguồn tài chính mới, hỗ trợ thanh khoản ngắn hạn thông qua hiệu ứng Rollover hoặc đường dây tín dụng, cũng như việc tái cơ cấu các khoản vay có kỳ hạn kéo dài. Các BACS là như vậy, đây chính là cứu cánh để giải quyết thanh khoản và khả năng thanh toán cả các vấn đề của nợ vượt khả năng thanh toán Một cột mốc quan trọng cho tái cơ cấu nợ trong quá trình London Club là “thỏa thuận về nguyên tắc”, mà đã được ký kết giữa các ngân hàng BAC đại diện và các quan chức chính phủ, một khi các điều khoản cơ cấu lại chính đã được thống nhất. Sau khi thỏa thuận nguyên tắc đã được ký kết, các điều khoản đã được gửi đến tất cả các ngân hàng khác để phê duyệt. Trong bước này, nhất trí được yêu cầu cho việc hoàn thành công việc tái cấu trúc.
Tuy nhiên, việc tranh chấp trong nội bộ chủ nợ là một vấn đề lớn trong thời kỳ tái cơ cấu nợ ngân hàng của những năm 1980 và 1990. Theo dữ liệu thu thập được, khoảng 30 % quá trình tái cơ cấu London Club bị tranh chấp trong nội bộ chủ nợ đã dẫn đến sự chậm trễ của 3 tháng hoặc hơn trong việc thực hiện thỏa thuận này. Trong hầu hết các trường hợp, vấn đề trên bị gây ra bởi nhóm các ngân hàng nhỏ hơn, chẳng hạn như các ngân hàng khu vực tại Mỹ. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, chủ nợ lớn cũng từ chối tham gia vào các hiệp định sắp xếp bởi một nhóm đại diện (ví dụ, Bankers Trust ở Algeria vào năm 1992, Lloyds ngân hàng ở Argentina vào năm 1982, Citibank tại Chile vào năm 1987 và tại Philippines vào năm 1986). Một vấn đề nữa là lặp đi lặp lại bất đồng về thành phần và lãnh đạo của Ủy ban nhân nợ (thí dụ, tại Algeria vào năm 1994, Cộng hòa Dominica vào năm 1983, và Nam Phi vào năm 1985).
Vào cuối những năm 1980, nhiều nước đang phát triển đã các khoản nợ thương mại với các ngân hàng nước ngoài. Họ đã cố gắng giải quyết tình trạng nợ nần trên dựa các thỏa thuận gia hạn nợ với các chủ nợ ngân hàng của họ, cấp cứu trợ thanh khoản ngắn hạn nhưng lại không có kết quả. Trong tình huống này, các kế hoạch Brady thành một sự thay đổi lớn về chính sách, bởi vì khu vực chính thức bắt đầu để khuyến khích giảm nợ hoàn toàn để phục hồi khả năng thanh toán của con nợ. Kế hoạch này đã được thư ký Kho bạc Mỹ Nicholas Brady đầu tiên công bố tháng 3 năm 1989 và sau đó đã được hỗ trợ rộng rãi, bao gồm cả của IMF và Ngân hàng Thế giới.
4. Kế hoạch Brady
Các yếu tố chính của Kế hoạch Brady như sau:
– Trao đổi các khoản vay ngân hàng với trái phiếu Chính phủ: Kế hoạch Brady đã nhìn thấy trước sự trao đổi của các khoản vay ngân hàng còn thiếu với trái phiếu chính phủ mới, mà một phần đã được thế chấp bằng trái phiếu kho bạc Mỹ. Việc phát hành các công cụ giao dịch mới lên tới vài tỉ đô la Mỹ đã tạo ra một thị trường thứ cấp có tính thanh khoản cao cho thị trường trái phiếu Chính phủ, vốn đã tồn tại cuối cùng trong những năm giữa hai trường mới nổi. Kế hoạch Brady do đó có thể được xem như là sự khởi đầu của kỷ nguyên hiện đại, kinh doanh trái phiếu chủ quyền.
– Tiếp cận các công cụ mới: chủ nợ tham gia đã cung cấp một danh mục tùy chọn, cho phép chính phủ mắc nợ lựa chọn giữa các công cụ mới khác nhau, bao gồm cả trái phiếu có giá trị thấp hơn mệnh giá, và trái phiếu với kỳ hạn dài và có lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, nhưng không có chiết khấu. Các chủ nợ cũng có thể chọn cách cung cấp khoản tín dụng mới cho các nước phát hành, trong trường hợp này họ được chào bán dụng cụ mới có điều kiện tốt hơn, ví dụ như, lãi cao hơn hoặc thời gian đáo hạn ngắn hơn.
– Lãi của nợ: nợ lãi cho các ngân hàng thương mại đã phần nào được cắt giảm, nhưng một phần cũng được đầu tư vào một lượng trái phiếu mới với lãi suất thả nổi ngắn hạn.
Tổng cộng, 17 giao dịch Brady đã được thực hiện trên cơ sở quốc gia của quốc gia, bắt đầu với Mexico trong tháng 9 năm 1989 và kết thúc với thỏa thuận loại Brady cuối cùng trong Côte d’Ivoire và Việt Nam trong năm 1997. Hầu hết các nước Brady là ở châu Mỹ Latinh, cụ thể là Argentina, Bolivia, Brazil, Costa Rica, Cộng hòa Dominican, Ecuador, Mexico, Panama, Peru, Uruguay và Venezuela. Sáu khác nước là Bulgaria, Côte d’Ivoire, Jordan, Nigeria, Philippines, Ba Lan và Vietnam.
Kế hoạch Brady được coi là một thành công. Các nước con nợ chấm dứt các ‘thập kỷ mất mát của cuộc khủng hoảng nợ năm 1980 và bình thường hoá quan hệ của họ với các chủ nợ lần đầu tiên sau nhiều năm kéo dài đàm phán lại nợ. Các thỏa thuận cũng thúc đẩy một làn sóng mới của các dòng vốn vào thị trường mới nổi. Tuy nhiên, không phải tất cả những hy vọng kết nối với các kế hoạch Brady đã được ứng nghiệm. Vì việc trả lãi của các trái phiếu mới bị đe dọa ảnh hưởng đến tính bền vững nợ của một số con nợ 10 năm sau đó, góp phần tạo nên rủi ro mặc định là việc gia hạn nợ lại tiếp tục.
5. So sánh Câu lạc bộ Pải và Câu lạc bộ Luân Đôn
Giống như Câu lạc bộ Pari, Câu lạc bộ Luân Đôn hoạt động nhằm giảm bớt gánh nặng thanh toán nợ nhanh chóng của các nước đang phát triển. Không một Câu lạc bộ nào có đủ điều kiện như một tổ chức quốc tế. Tư cách thành viên của nó linh hoạt và Câu lạc bộ không có sự uỷ quyền chính thức nào. Mỗi Câu lạc bộ có một tập hợp các luật lệ và thủ tục cho các hoạt động tái thiết lập. Trong Câu lạc bộ Luân Đôn, lợi ích của các ngân hàng chủ nợ được đại diện bởi một ban lãnh đạo bao gồm những ngân hàng có sự quảng cáo lớn nhất đối với những nước nợ đang được xem xét. (Trong Câu lạc bộ Luân Đôn, more often than not, không tính đến những khoản tiền cược tương đối của họ vào việc tái thiết lập đang được xem xét, các nước chủ nợ được đại diện bởi người có ảnh hưởng nhất trong số họ). Các nguyên tắc chỉ đạo của Câu lạc bộ Pari cho việc vỡ nợ sắp xảy ra, điều kiện và chia sẻ gánh nặng áp dụng giống như Câu lạc bộ Luân Đôn. Bất chấp những điểm tương đồng về mặt cấu trúc và thủ tục, vẫn tồn tại những điểm khác nhau quan trọng giữa Câu lạc bộ Pari và Câu lạc bộ Luân Đôn.
Các nước nợ của Câu lạc bộ Luân Đôn có được sự linh hoạt hơn nhưng lại phải gánh chịu nhiều chỉ phí hơn các đối tác của Câu lạc bộ Pari.
Trong khi Câu lạc bộ Luân Đôn tái thiết lại các khoản nợ thương mại, Câu lạc bộ Pari lại tái thiết các khoản nợ thuộc sở hữu của các chủ nợ chính thức. Câu lạc bộ Luân Đôn không có chủ tịch hay ban thư kí thường trực và thủ tục, cơ quan của nó cũng lỏng lẻo hơn so với Câu lạc bộ Pari. Vì vậy, các luật lệ điều chỉnh các hội nghị của Câu lạc bộ Luân Đôn thay đổi một cách rộng lớn từ nước này sang nước khác. Việc tiếp cận linh hoạt này làm cho các thủ tục của Câu lạc bộ rất khó mô tả. Vì không có một khung chính thức cho việc tái thiết lại tại Câu lạc bộ nên các ngân hàng thương mại có sự quảng cáo lớn nhất đối với một nước đang tìm cách tái thiết các khoản nợ của nó thành lập một Uỷ ban lãnh đạo được gọi là Uỷ ban Tư vấn Ngân hàng (BAC) để phục vụ lợi ích của tất cả các ngân hàng thương mại có các khoản cho vay đối với một nước đặc biệt. Trong khi hàng trăm ngân hàng có thể liên quan tới việc tái thiết lập của Câu lạc bộ Luân Đôn thì Uỷ ban lãnh đạo sẽ bao gồm không nhiều hơn 15 ngân hàng. Một thoả thuận đạt được giữa nước nợ và Uỷ ban lãnh đạo phải có sự hỗ trợ của các ngân hàng chiếm tới 90% – 95% của việc quảng cáo nổi bật trước khi thoả thuận đó có thể được kí chính thức. Vì thế, việc tái thiết thông qua Câu lạc bộ Luân Đôn có thể thiếu hấp dẫn, tốn thời gian, và tốn kém cho nước nợ. Ngược lại, một cuộc đàm phán ở Câu lạc bộ Pari được kí kết trong vòng 2 ngày và hầu như không tốn kém một chút nào cho nước nợ.
Như thường lệ, Câu lạc bộ Luân Đôn không tái thiết những thanh toán lãi, trong khi Câu lạc bộ Pari lại tái thiết cả tiền vốn và lãi. Thay vào đó, các ngân hàng tư nhân trong một khoản vay như vậy thường được dựa trên sự quảng cáo của họ ở nước nợ. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các ngân hàng dần trở nên miễn cưỡng trong việc cung cấp khoản tiền mới cho các nước nợ. Các hiệp định tái thiết hiện nay đưa ra một danh sách nhiều sự lựa chọn tài chính bao gồm các công cụ giảm nợ. Không giống như Câu lạc bộ Pari, Câu lạc bộ Luân Đôn có thể tái thiết một khoản nợ mà không đòi hỏi nước kí kết một hiệp định dự phòng với Quỹ tiền tệ quốc tế. Câu lạc bộ Pari thường từ chối các giai đoạn củng cố hơn một năm, trong khi Câu lạc bộ Luân Đôn muốn kéo dài tới hai hoặc ba năm. Tuy nhiên, Câu lạc bộ Pari lại từ từ mở rộng các giai đoạn củng cố của mình trong khi Câu lạc bộ Luân Đôn lại không linh hoạt trong vấn đề này.
Khác với câu lạc bộ Pari, các chủ nợ của Câu lạc bộ Luân Đôn bầu ra ủy ban tư vấn ngân hàng mà thành viên là các chủ nợ lớn nhất để đại diên cho các chủ nợ đàm phán với nước con nợ.
Việt Nam đã gia nhập câu lạc bộ Luân Đôn, Tuy vậy, sau khi kí kết các hiệp định xử lí nợ qua Câu lạc bộ Luân Đôn, Việt Nam sẽ phải thực hiện một loạt cam kết theo thông lệ quốc tế đồng thời phải tiến hành nhiều công việc phức tạp như: ban hành thủ, tục về phát hành trái phiếu, về thế chấp bằng trái phiếu kho bạc Mĩ, về nghĩa vụ thanh toán nợ trái phiếu, về áp dụng các luật của Mĩ và Anh và thị hành các phán quyết của tòa án của họ.
Việc hoàn thành xử lí nợ thương mại của Việt Nam qua Câu lạc bộ Luân Đôn có ý nghĩa quan trọng: giúp Việt Nam xử lí được khoản nợ lớn (gần 1 tỉ USD), làm giảm nợ và giãn nợ, góp phần giữ gìn và nâng cao uy tín của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam vay mới được dễ dàng và thu hút thêm các nguồn vốn khác từ bên ngoài.
Luật Minh KHuê (tổng hợp & phân tích)