1. Khái niệm chính thể

Thuật ngữ “chính thể” là một từ Hán Việt cổ, dùng để chỉ một chế độ chính trị, cách thức tổ chức nhà nước (regime). Hình thức chính thể là sự biểu hiện bề ngoài thành mô hình, hình dáng của nhà nước thông qua cách thức thành lập, cơ cấu bên trong của việc tổ chức, vị trí, quyền hạn trách nhiệm, mối quan hệ của các cơ quan nhà nước cấu tạo nên nhà nước và bản chất, nguồn gốc của quyền lực nhà nước.

Hay, Chính thể là cách thức tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của nhà nước và xác lập những mối quan hệ cơ bản của các cơ quan đó.

Chính thể là một trong các yếu tố quan trọng cấu thành hình thức nhà nước, thường được quy định trong văn bản có giá trị pháp lí cao nhất – hiến pháp. Có hiến pháp quy định về chính thể trong một chương riêng, song có trường hợp nội dung về chính thể được quy định rải rác trong các điều của hiến pháp. Tuy được quy định trong hiến pháp nhưng trên thực tế vận hành thì chính thể có nhiều biến dạng.

Định nghĩa trên cho thấy, xem xét về hình thức chính thể của một nhà nước là xem xét trình tự và thủ tục thành lập cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước, xem xét mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước với nhau, với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước và với nhân dân. Cụ thể, tìm hiểu về hình thức chính thể của một nhà nước là tìm hiểu xem trong nhà nước đó:

– Quyền lực cao nhất của nhà nước được trao cho ai? Nhà vua hay một cơ quan hay một số cơ quan của nhà nước?

– Phương thức trao quyền lực cho các cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước là gì? Cha truyền con nối hay chỉ định hay suy tôn hay bầu cử…?

– Quan hệ giữa các cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước với nhau, với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước và với nhân dân diễn ra như thế nào? Nhân dân ở nước đó có được tham gia vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước hay không?

Chính thể là một vấn đề quan trọng bậc nhất của mỗi một hiến văn. Điều này có nghĩa là Hiến pháp có nhiệm vụ phải quy định chính thể của Nhà nước mình. Chính thể là hình thức tổ chức Nhà nước do Hiến pháp định ra thông qua việc quy định của Hiến pháp về cách thức thành lập các cơ quan Nhà nước ở trung ương và quan hệ giữa chúng với nhau, và mức độ tham gia của nhân dân vào việc tổ chức quyền lực Nhà nước.

2. Hình thức chính thể là gì?

Hình thức nhà nước (hay còn được gọi một cách thông thường là hình thức tổ chức nhà nước) là mô hình tổ chức ra các cơ quan nhà nước và mối quan hệ giữa chúng với nhau, giữa các cơ quan nhà nước với nhân dân, và thường được phân tích dưới nhiều giác độ/tiêu chí khác nhau. Hình thức chính thể là một hình thức rất quan trọng trong các dạng hình thức nhà nước.

Hình thức chính thể là một hình thức quan trọng nhất trong các dạng hình thức nhà nước. Hình thức chính thể là sự biểu hiện bề ngoài thành mô hình nhà nước thông qua cách thức cơ cấu bên trong của việc tổ chức, vị trí, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ của các cơ quan nhà nước cấu tạo nên nhà nước và bản chất, nguồn gốc của quyền lực nhà nước cũng như mức độ tham gia vào việc tổ chức quyền lực nhà nước của nhân dân.

3. Các loại hình thức chính thể

Hiện nay, trên thế giới có hai loại hình thức chính thể cơ bản. Đó là chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. Chính thể quân chủ là chính thể mà ở đó nguyên thủ quốc gia do thế tập truyền ngôi, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ cõi “hư vô”, do thiên đình định đoạt. Chính thể cộng hoà là chính thể nguyên thủ quốc gia do bầu cử lập nên và quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân.

4. Chính thể quân chủ

– Chính thể quan chủ là chính thể mà toàn bộ hoặc một phần quyền lực tối cao của nhà nuớc được trao cho một cá nhân (vua, quốc vương…) theo phương thức chủ yếu là cha truyền con nối (thế tập).

– Đặc trưng:

+ Người đứng đầu nhà nước và về mặt pháp lý là người có quyền cao nhất của nhà nước là vua hoặc những người có danh hiệu tương tự.

+ Đa số các vua lên ngôi bằng con đường cha truyền con nối nên đó là phương thức chủ yếu. Tuy nhiên, các nhà vua sáng lập ra một triều đại mới thường lên ngôi bằng các con đường khác như chỉ định, suy tôn, bầu cử, tự xưng, được phong vương hoặc tiếm quyền, song ở các triều vua sau, phương thức truyền kế ngôi vua lại được duy trì và củng cố.

Mô hình quân chủ thường được tổ chức thành quân chủ tuyệt đối của nhà nước hoàn toàn theo chế độ phong kiến. Nhà vua có thể thâu tóm mọi quyền hành từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp; nhà vua đứng trên pháp luật và tạo nên một chính thể quân chủ chuyên chế.

Quân chủ hạn chế (hay còn gọi là quân chủ lập hiến) là mô hình tiến bộ hơn: quyền lực thần bí, truyền ngôi của nhà vua bị hạn chế, phải nhường chỗ cho các thiết chế khác của nhà nước. Trước hết là cho Quốc hội – cơ quan mới xuất hiện trong cách mạng tư sản do nhân dân trực tiếp bầu ra, sau đó phải nhường tiếp cho Chính phủ – cơ quan được hình thành dựa trên cơ sở của Quốc hội. Hiến pháp là văn bản pháp lý thể hiện sự hạn chế này. Mục đích của sự hạn chế đó là một phần hay còn gọi là cơ sở của tuyên ngôn “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Đó cũng là một bản cáo chung cho sự ra đi của chế độ quân chủ chuyên chế.

Thời hiện đại, chính thể quân chủ dường như bị suy tàn một cách dần dần. Những nền quân chủ còn lại đều là những nền quân chủ lập hiến – nhà vua bị hạn chế quyền lực bởi bản văn hiến pháp – những ông vua lập hiến. Quyền hạn của nhà vua chỉ còn là hình thức. Một trong những mô hình phổ biến hiện nay của quân chủ lập hiến là quân chủ đại nghị (mà hình mẫu của nó là ở các nước như Anh, Nhật,…).

5. Chính thể cộng hoà

– Chính thể cộng hòa là chính thể mà quyền lực tối cao của nhà nước được trao cho một hoặc một số cơ quan theo phương thức chủ yếu là bầu cử.

– Đặc trưng: Trong chính thể này, quyền lực cao nhất của nhà nước được trao cho một hoặc một số cơ quan chủ yếu bằng con đường bầu cử. Hiến pháp của các nước có chính thể này đều quy định rõ trình tự, thủ tục để thành lập các cơ quan đó.

So với thể chế quân chủ thì việc tổ chức Nhà nước theo thể thức cộng hoà có tính chất dân chủ, tiến bộ hơn. Sở dĩ như vậy là bởi vì việc tổ chức nhà nước này cố gắng đoạn tuyệt với cách thức tổ chức của chế độ phong kiến. Nguyên thủ quốc gia do bầu cử mà ra. Trong cách thức tổ chức nhà nước này, nhân dân, ở mức độ khác nhau, là chủ thể được quyền tham gia vào các công việc nhà nước, được Hiến pháp tuyên bố “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Trong chính thể cộng hoà, nguyên thủ quốc gia do bầu cử mà ra. Trong cách thức tổ chức Nhà nước này, nhân dân ở mức độ khác nhau là chủ thể được quyền tham gia vào các công việc Nhà nước, được Hiến pháp tuyên bố quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.

Mô thức tổ chức Nhà nước theo chính thể cộng hoà thường chia làm hai loại: Cộng hoà đại nghị và Cộng hoà tổng thống. Cách phân chia này được xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa hai nhánh quyền lực hành pháp và lập pháp. Nếu hai nhánh quyền lực này phụ thuộc và có sự phối kết hợp với nhau thì thuộc loại hình đại nghị; còn ngược lại, nếu giữa chúng không có mối quan hệ nào thì thuộc loại hình tổng thổng.

6. Phân biệt chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà

Chính thể quân chủ Chính thể cộng hòa
– Là chính thể mà toàn bộ hoặc một phàn quyền lực tối cao của nhà nước được trao cho một cá nhân (vua, quốc vương…) theo phương thức chủ yếu là cha truyền con nối (thế tập). – Là chính thể mà quyền lực tối cao của nhà nước được trao cho một hoặc một số cơ quan theo phương thức chủ yếu là bầu cử.
– Chủ thể nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước là một cá nhân (vua, hoàng đế, quốc vương…). – Chủ thể nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước là một cơ quan (ví dụ: Quốc hội của Việt Nam) hoặc một số cơ quan (ví dụ: Nghị viện, Tổng thống và Tòa án tối cao ở Mỹ).
– Phương thức trao quyền lực tối cao cho nhà vua chủ yếu là cha truyền con nối, ngoài ra, có thể bằng chỉ định, suy tôn, tự xưng, được phong vương, bầu cử hoặc tiếm quyền… – Phương thức trao quyền lực cho cơ quan quyền lực tối cao là bằng bầu cử (ví dụ ở Việt Nam) hoặc chủ yếu bằng bầu cử (ví dụ ở Mỹ).
– Thời gian nắm giữ quyền lực tối cao là suốt đời và có thể truyền ngôi cho đời sau. – Thời gian nắm giữ quyền lực tối cao là chỉ trong một thời gian nhất định (theo nhiệm kỳ) và không thể truyền lại chức vụ cho đời sau.
– Nhân dân không được tham gia vào việc lựa chọn nhà vua cũng như giám sát hoạt động của nhà vua. – Nhân dân được tham gia bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước cũng như giám sát hoạt động của cơ quan này.
– Chính thể quân chủ gồm các dạng: quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) và quân chủ hạn chế (tương đối). Riêng chính thể quân chủ hạn chế lại có ba biến dạng là quân chủ đại diện đẳng cấp, quân chủ nhị hợp (nhị nguyên) và quân chủ đại nghị (nghị viện). – Chính thể cộng hòa gồm hai dạng: cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ. Riêng chính thể cộng hòa dân chủ lại có các dạng tương ứng với các kiểu nhà nước là cộng hòa chủ nô, cộng hòa phong kiến, cộng hòa tư sản và cộng hòa xã hội chủ nghĩa.

Mô hình tổ chức quyền lực của chế độ dân chủ, hay có thể còn được gọi là cộng hòa rất phức tạp hơn so với chế độ chính trị quân chủ. Sự phức tạp do quyền lực nhà nước do nhiều người thực hiện gây nên. Chính vì phải đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước luôn luôn thuộc về nhân dân nên phải có văn bản quy định. Đó là Hiến pháp. Nên không có một nhà nước nào được gọi là dân chủ hay cộng hòa mà lại không có hiến pháp. Mô thức tổ chức Nhà nước theo chính thể cộng hoà thường chia làm hai loại: Cộng hoà đại nghị và Cộng hoà tổng thống.

Luật LVN Group (tổng hợp & phân tích)