Chủ thể thương lượng tập thể gồm hai bên: bên đại diện người lao động và bên người sử dụng lao động.

1. Bên đại diện người lao động

Bên đại diện người lao động chính là tổ chức đại diện của người lao động theo quy định của pháp luật. Ở nhiều quốc gia, tổ chức công đoàn được coi là tổ chức đại diện cho người lao động , có quyền thương lượng tập thể với người sử dụng lao động hoặc với tổ chức đại diện của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, do nhiều quốc gia trên thế giới tồn tại hệ thống đa công đoàn nên việc xác định công đoàn có tư cách tiến hành thương lượng tập thể tương đối đa dạng và phức tạp. Một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc… quy định công đoàn nào có số lượng đoàn viên chiếm đa số lực lượng lao động (thường là trên 50%) thì có thể thay mặt tập thể lao động tiến hành thương lượng tập thể. Một số quốc gia khác như Philipines, Indonesia… lại quy định chỉ có công đoàn nào đại diện nhất, tức là có số lượng đoàn viên lớn nhất, mới có quyền thương lượng tập thể. Có quốc gia như Campuchia, lại quy định tất cả các công đoàn đều có quyền thương lượng tập thể và kết quả thương lượng của từng công đoàn với người sử dụng lao động chỉ áp dụng đối với đoàn viên của công đoàn đó…Ổ một số quốc gia như Philipines, Trung Quốc quy định thương lượng tập thể có thể được thực hiện ở những nơi chưa có công đoàn. Trong trường họp này, tổ chức đại diện người lao động là đại diện do người lao động cử ra.

Tại Việt Nam, chủ thể đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể được qụy định khác nhau trong từng thời kì. Bộ luật lao động năm 2012 quy định chủ thể đại diện thương lượng tập thể cho bên tập thể lao động là tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở. Theo đó, tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở là ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở. Như vậy, theo quy định này, chủ thể đại diện của bên tập thể lao động phải là những người có thẩm quyền trong tổ chức công đoàn, không thừa nhận đại diện do tập thể lao động cử ra tiến hành thượng lượng như một số quốc gia khác.

Trước yêu cầu phù hợp với cam kết về lao động trong Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), pháp luật lao động nói chung, pháp luật thương lượng tập thể nói riêng ở Việt Nam phải tuân thủ thực hiện các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của người lao động theo Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế, cụ thể là quyền tự do hiệp hội và thúc đẩy quyền thương lượng tập thể theo Công ước số 87 và Công ước số 98 (Công ước số 87 năm 1948 của Tổ chức Lao động quốc tế về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức; Công ước số 98 năm 1949 của Tổ chức Lao động quốc tế về quyền tổ chức và thưonug lượng tập thể). Trên cơ sở này, Bộ luật lao động năm 2019 đã có quan điểm mới về tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Theo đó, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.

Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có quyền yêu cầu thương lượng tập thể khi đạt tỉ lệ thành viên tối thiểu trên tổng số người lao động trong doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ. Trường hợp doanh nghiệp có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đáp ứng quy định thì tổ chức có quyền yêu cầu thương lượng tập thể là tổ chức có số thành viên nhiều nhất trong doanh nghiệp. Các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở khác có thể tham gia thương lượng tập thể khi được tổ chức đại diện người lao động có quyền yêu cầu thương lượng tập thể đồng ý. Trường họp doanh nghiệp có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà không có tổ chức nào đáp ứng quy định thì các tổ chức có quyền tự nguyện kết hợp với nhau để yêu cầu thương lượng tập thể nhung tổng số thành viên của các tổ chức này phải đạt tỉ lệ tối thiểu theo quy định (Điều 68 Bộ luật lao động năm 2019).

Đối với thương lượng tập thể ngành, theo quy định tại Điệu 73 Bộ luật lao động năm 2019, chủ thể đại diện cho bên người lao động là tổ chức công đoàn ngành. Đối với thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia thì đại diện thương lượng là tổ chức đại diện người lao động ở các doanh nghiệp do các bên thương lượng quyết định trên cơ sở tự nguyện thoả thuận trong hội đồng thương lượng tập thể.

2. Bên người sử dụng lao động

Bên người sử dụng lao động đại diện thương lượng tập thể có thể là người sử dụng lao động hoặc tổ chức đại diện người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật. Tuỳ thuộc vào phạm vi thương lượng tập thể mà pháp luật các quốc gia quy định chủ thể đại diện cho bên người sử dụng lao động. Theo đó, nếu thương lượng ở cấp doanh nghiệp thì chủ thể đại diện là người sử dụng lao động hoặc đại diện của người sử dụng lao động. Còn ở các cấp ngoài doanh nghiệp (ngành, liên ngành, vùng,…) thì chủ thể đại diện cho bên người sử dụng lao động là tổ chức đại diện của người sử dụng lao động ở các cấp tương ứng.

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thương lượng tập thể ở phạm vi doanh nghiệp, chủ thể đại diện của bên người sử dụng lao động là người sử dụng lao động. Thương lượng tập thể ở phạm vi ngành, chủ thể đại diện bên người sử dụng lao động là tổ chức đại diện người sử dụng lao động. Tổ chức đại diện người sử dụng lao động là tổ chức được thành lập hợp pháp, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, bao gồm: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA) và các tổ chức đại diện của người sử dụng lao động khác. Thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia thì đại diện thương lượng là đại diện những người sử dụng lao động ở các doanh nghiệp do các bên thương lượng quyết định trên cơ sở tự nguyện thoả thuận trong hội đồng thương lượng tập thể.

Số lượng người tham gia thương lượng tập thể của mỗi bên, ở phạm vi một hoặc nhiều doanh nghiệp, hoàn toàn do các bên thoả thuận. Thành phần tham gia thương lượng tập thể của mỗi bên do các bên tự quyết định. Trường hợp thương lượng tập thể ngành thì số lượng và thành phần đại diện thương lượng do tổ chức công đoàn ngành và tổ chức đại diện người sử dụng lao động cấp ngành quyết định (Điều 72 Bộ luật lao động năm 2019).

Luật LVN Group (sưu tầm và biên tập)