Công ty tôi có tuyển 1 người vào vị trí kế toán trưởng và khi tuyển đã yêu cầu người đó phải có chứng chỉ kế toán trưởng, nhưng chứng chỉ Kế toán trưởng của người đó đã quá cũ và lâu, chỉ là chứng nhận tham gia khóa đào tạo 3 tháng về Kế toán trưởng từ năm 1995. Từ khi nhận chứng chỉ đó, người này không đảm trách vị trí kết toán trưởng ngay sau đó mà chỉ là kế toán viên đến năm 2008 mới làm kế toán trưởng cho 1 công ty khác ( theo lý lịch người đó khai). Vậy xin Luật sư của LVN Group cho biết chứng chỉ này có còn giá trị hay không ? (Vì tôi có đọc thấy 1 tài liệu nói rằng nếu không là kế toán trưởng trong vòng 5 năm sau khi có chứng chỉ thì chứng chỉ đó không có giá trị).
Vấn đề thứ 2 tôi muốn hỏi là : Sau khi xem bản gốc của chứng chỉ thì không thể đọc được nội dung gì trên đó vì nó đã bị nước mưa làm mục nát ( theo người đó nói) mờ và mất gần hết thông tin. Vì vậy không thể công chứng được. Cho nên công ty tôi không chấp nhận giấy này, việc này là đúng hay sai ? Sau đó công ty yêu cầu người này phải lấy chứng chỉ mới để bổ sung hồ sơ nhân sự, nếu không có chứng chỉ này thì công ty không thể bổ nhiệm chị ấy là kết toán trưởng. Thì chị ấy nói chứng chỉ thì đơn giản, bỏ tiền mua là được . Vậy nếu công ty tôi biết chị ấy bỏ tiền ra mua chứng chỉ mà vẫn chấp nhận thì sau này nếu bị phát hiện gian lận bằng cấp thì doanh nghiệp có bị phạt không ạ ? (Chị ấy đã đang làm chức vụ kế toán ở công ty tôi từ tháng 11/2014.) Công ty hiện nay đang là công ty do pháp nhân Việt Nam làm chủ. Sắp tới công ty chuyển sang hình thức đầu tư nước ngoài do pháp nhân nước ngoài làm chủ nên cần bổ nhiệm kế toán trưởng thực sự. Vậy mong Luật sư của LVN Group trả lời giúp tôi . Xin cảm ơn nhiều.
Người gửi :M N
Câu hỏi được biên tập từ bộ phận tư vấn luật dân sự của công ty luật LVN Group.
Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, gọi1900.0191
Trả lời:
Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty Luật LVN Group. Về vấn đề của bạn, chúng tôi xin được giải đáp như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009;
– Thông tư 199/2011/TT-BTC : Hướng dẫn thực hiện việc tổ chức bồi dưỡng và cấp chứng chỉ bồi dưỡng Kế toán trưởng
– Nghị định 138/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
2. Nội dung phân tích:
– Về chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng.
– Thông tư 199/2011/TT-BTC : Hướng dẫn thực hiện việc tổ chức bồi dưỡng và cấp chứng chỉ bồi dưỡng Kế toán trưởng
“Điều 9. Cấp “Chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng”
1. Học viên có kết quả thi đạt loại trung bình trở lên (Học viên đạt yêu cầu) được Thủ trưởng cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ra quyết định tổ chức khoá học cấp “Chứng chỉ bồi dưỡng Kế toán trưởng”.
2. Kết thúc mỗi khoá học bồi dưỡng kế toán trưởng, đơn vị tổ chức khoá học bồi dưỡng kế toán trưởng gửi “Quyết định công nhận kết quả đạt yêu cầu khoá học” kèm theo “Danh sách học viên đạt yêu cầu khoá học” (Phụ lục số 03) về Bộ Tài chính, để xem xét, chấp thuận và cấp phôi Chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng. Thủ trưởng cơ sở đào tạo, bồi dưỡng (hoặc cấp phó được Thủ trưởng cơ sở đào tạo, bồi dưỡng uỷ quyền) mới có quyền ký, cấp Chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng.
3. Chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng phải được cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tổ chức khoá học bồi dưỡng kế toán trưởng đóng dấu nổi vào giáp lai ảnh của học viên.
4. Chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng có giá trị sử dụng trong thời hạn 5 năm kể từ ngày cấp để bổ nhiệm kế toán trưởng lần đầu theo quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật Kế toán. Quá thời hạn 5 năm học viên có yêu cầu cấp lại chứng chỉ phải học lại khoá học bồi dưỡng kế toán trưởng.
5. Những người có Chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng đã đủ điều kiện và được bổ nhiệm làm kế toán trưởng 1 lần thì Chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng đó vẫn có giá trị để bổ nhiệm kế toán trưởng từ lần thứ hai trở đi, trừ khi khoảng thời gian không làm kế toán trưởng giữa 2 lần bổ nhiệm đã quá 5 năm.
6. Chứng chỉ bị mất, thất lạc học viên liên hệ với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng (nơi cấp chứng chỉ) để làm thủ tục cấp lại.”
-> Do đó việc chị này chỉ chứng nhận tham gia khóa đào tạo 3 tháng về Kế toán trưởng từ năm 1995, chứng chỉ này đã cũ và được cấp quá lâu hơn nữa cong bị mục nát thì chúng chỉ này được xác định là không còn giá trị theo quy định.
Việc công ty không chấp nhận bằng nà là có căn cứ.
– Về việc sử dụng bằng giả, mua bằng theo Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 tại Điều 267. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bốn năm đến bảy năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”.
Theo đó, việc chị này sử dụng bằng giả được cho vào việc “ sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ giả” và đây là một điều cấm. Tuy nhiên chị này có hành vi công khai, không nhằm lừa dối cơ quan nhà nước vì đã nói với công ty, nên chị này không cấu thành tội hình sự.
Tuy nhiên chị này có thể bị xử phạt hành chính. Do vậy, căn cứ khoản 3, khoản 5 điều 16 Nghị định 138/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. “Điều 16: Vi phạm quy định về sử dụng và công khai thông tin cấp văn bằng, chứng chỉ
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi mua bán, sử dụng văn bằng, chứng chỉ giả.
5. Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này”.
– Phía doanh nghiệp có bằng chứng cho rằng đã nhận biết về hành vi vi phạm mà vẫn sử dụng bằng cấp giả được coi là có hành vi sử dụng bằng, chứng chỉ giả nên có thể bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính này.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật về dân sự và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự – Công ty luật LVN Group