1. Điều kiện giảm án phạt tù, đặc xá ?

Xin chào Luật sư của LVN Group tôi có câu hỏi sau muốn nhờ Luật sư của LVN Group tư vấn: Tôi có một người bạn bán trái phép chất ma túy và có lệnh truy nã, sau khi biết mình có lệnh truy nã bạn tôi đã ra tự thú theo điểm o khoản 1 điều 46 BLHS. mức án phạt là 7 năm thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 04/04/2013 đến nay, vào ngày 2/9/2015 bạn tôi được giảm án chấp hành hình phạt là 05 tháng.
Tôi muốn hỏi Luật sư của LVN Group là đến ngày 30/4/2016 bạn tôi có thể tiếp tục được giảm án không? và có đủ điều kiện Đặc xá vào ngày Quốc khánh 2/9/2016 không?
Cảm ơn!

>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự gọi: 1900.0191

Trả lời:

1. Về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù

Theo Thông tư liên tịch số 02/2013/ TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân quy định về điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù như sau:

Điều 6. Điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

1. Phạm nhân có đủ các điều kiện sau đây thì được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:

a) Đã chấp hành được ít nhất một phần ba thời hạn đối với hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống hoặc mười hai năm đối với tù chung thân;

b) Có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, cụ thể như sau:

– Phạm nhân bị phạt tù chung thân phải có ít nhất bốn năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm thời hạn được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân phải có ít nhất năm năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên hai mươi năm đến ba mươi năm phải có ít nhất ba năm sáu tháng liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên mười lăm năm đến hai mươi năm phải có ít nhất ba năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên mười năm đến mười lăm năm phải có ít nhất hai năm liên tục liền kề hoặc tám quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên năm năm đến mười năm phải có ít nhất một năm hoặc bốn quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên ba năm đến năm năm phải có ít nhất sáu tháng hoặc hai quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù ba năm trở xuống phải có ít nhất một quý gần nhất được xếp loại từ khá trở lên.

Mặt khác,theo quy định tại điểm 3.2 mục 3 của Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt thì:

3.2. Mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt

a) Người bị kết án cải tạo không giam giữ thì mỗi lần có thể được giảm từ ba tháng đến chín tháng,

b) Người bị kết án phạt tù từ ba mươi năm trở xuống thì mỗi lần có thể được giảm từ ba tháng đến ba năm. Trường hợp được giảm ba năm phải là người bị kết án phạt tù có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, cải tạo và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của Trại giam (Trại tạm giam).

c) Người bị kết án tù chung thân lần đầu được giảm xuống ba mươi năm.

d) Mỗi người có thế được giảm thời hạn chấp hành hình phạt nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là một phần hai mức hình phạt đã tuyên hoặc hai nươi năm đối với hình phạt tù chung thân.

đ) Mỗi người mỗi năm chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt một lần. Trường hợp trong năm đó sau khi được giảm thời hạn chấp hành hình phạt mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng như lại lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thế được xét giảm thêm tối đa là hai lần trong một năm.

Như vậy, theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 6 thì phạm nhân phạt tù ba năm trở xuống phải có ít nhất một quý gần nhất được xếp loại khá trở lên. Và một người có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt nhiều lần nhưng phải bảo đảm thực tế đã chấp hành 1/2 mức hình phạt.

Do đó, theo quy định nêu trên, để được tiếp tục giảm án bạn của bạn phải được xếp loại khá về chấp hành, cải tạo theo quy định của trại giam ít nhất 1 quý gần nhất và thực tế chấp hành được 1/2 mức phạt tù theo quy định. Một năm chỉ được xét giảm 1 lần trừ trường hợp ngoại lệ như trên.

Còn đối với người chưa thành niên phạm tội, trong quá trình chấp hành hình phạt tù có thể được giảm mức mức hình phạt đã tuyên nếu đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 76 của Bộ luật Hình sự và điểm 5 của Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

Theo đó, người chưa thành niên bị phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Toà án xét giảm, trừ trường hợp người chưa thành niên nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay không phụ thuộc vào thời hạn đã chấp hành hình phạt được một phần tư mức hình phạt đã tuyên hay chưa.

2. Về đặc xá.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật đặc xá năm 2018thì:

Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.”

Nếu đã được đặc xá thì người bị kết án sẽ được tha tù trước thời hạn, do đó, trường hợp của bạn đưa ra là được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù mà không phải là được đặc xá.

Theo như thông tin mà bạn cung cấp thì hiện tại bạn của bạn đang chấp hành án phạt tù là 5 tháng tính từ ngày 02/09/2015 thì tính đến ngày 30/04/2016 thì bạn của bạn đã chấp hành được hết 1/4 thời gian của hình phạt tù có thời hạn, do đó:

Theo hướng dẫn 91/HD – HĐTVĐX hướng dẫn về việc triển khai thực hiện quyết định số 1366/2015/QĐ-CTN ngày 10 tháng 7 năm 2015 của chủ tịch nước về đặc xá năm 2015 thì người bị kết án phạt tù có thời hạn đã chấp hành ít nhất là một phần tư thời gian và người bị kết án phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đã chấp hành ít nhất là mười hai năm, nếu có đủ các điều kiện khác quy định tại Điểm a, c Khoản 1 Mục II này, thì được xét, đề nghị đặc xá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù: Là phạm nhân đã có hành động giúp trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phát hiện, truy bắt, điều tra, xử lý tội phạm; cứu được tính mạng người khác hoặc tài sản lớn (có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên) của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng kiến có giá trị lớn hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc khác được trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện xác nhận.

b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân, Nghệ sỹ nhân dân, Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; được tặng thưởng một trong các loại Huân chương hoặc được tặng thưởng Huy chương kháng chiến.

c) Có một trong những thân nhân sau đây là liệt sỹ: Bố đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con đẻ, anh, chị, em ruột hoặc bố nuôi, mẹ nuôi, con nuôi hợp pháp.

d) Là con đẻ, con nuôi hợp pháp của “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; con của gia đình được Chủ tịch nước, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng bằng “Gia đình có công với nước”.

đ) Khi phạm tội là người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi).

e) Là người từ 70 tuổi trở lên.

g) Là người đang bị mắc một trong các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận bằng văn bản là bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng.

h) Người từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau là người đang chấp hành án phạt tù tại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải nằm điều trị tại bệnh xá, bệnh viện liên tục trong một thời gian dài (từ ba tháng trở lên) hoặc không liên tục nhưng nhiều lần phải nằm điều trị tại bệnh viện (mỗi lần không dưới một tháng), không lao động, không tự phục vụ bản thân được và không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội, có kết luận của Hội đồng giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên.

i) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình: Là trường hợp có gia đình đang lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, không còn tài sản gì đáng kể hoặc có bố đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con ốm đau nặng kéo dài, không có người chăm sóc mà phạm nhân đó là lao động duy nhất trong gia đình, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình cư trú xác nhận là đúng.

k) Nữ phạm nhân đang có thai hoặc có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ.

Như vậy, nếu bạn của bạn đáp ứng đủ những điều kiện như trên, bạn của bạn sẽ được đặc xá vào ngày 02/09/2016.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hình sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group. Rất mong nhận được sự hợp tác!

2. Phân tích động cơ để phạm tội trục lợi là gì ?

Viện kiểm sát cáo buộc tôi cố ý làm trái và có động cơ chiếm đoạt tài sản là chưa thỏa đáng. Tôi cũng không có động cơ chia nhỏ các dự án để trục lợi”, ông Vũ Đình Thuần, nguyên trưởng ban điều hành đề án 112 biện minh.

Trong ngày thứ ba diễn ra phiên xử (15/1), HĐXX dành phần lớn thời gian làm rõ khoản tiền chiết khấu, hoặc gửi giá trước từ hợp đồng mà Ban điều hành đề án 112 ký kết với các nhà xuất bản, công ty.

Trước lời khai của bị cáo Nguyễn Đức Giao (nguyên giám đốc NXB Tư pháp) về việc NXB chi gần 700 triệu đồng tiền chi phí phát hành, tiền nhuận bút… cho Ban điều hành 112, ông Thuần đã phủ nhận.

“Hợp đồng Ban đề án ký kết với NXB Tư pháp là in ấn, không phải xuất bản. Việc NXB Tư pháp chuyển cho Ban điều hành Đề án 112 bao nhiêu tiền, cá nhân tôi không biết. Tôi cũng không chỉ đạo cấp dưới làm việc này”, bị cáo nói.

Ông Thuần cho biết thêm, tháng 6/2007, trong một buổi kiểm tra công việc, ông nghe nói có khoản tiền gần 700 triệu đồng của NXB Tư pháp chia cho Ban Điều hành, ông đã không đồng ý và đến gặp Bộ trưởng Tư pháp nhờ kiểm tra danh sách người nhận tiền. Khi được xem danh sách, lúc đó ông mới biết đó là tiền phát hành và nhuận bút.

“Nhuận bút thì Ban điều hành đã thuê chuyên gia bậc cao viết bài. Phát hành cũng không cần vì Ban điều hành đã có kinh phí chuyển phát nhanh, không cần đến khoản đó”, ông Thuần khai.

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến - 1900.0191

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua điện thoạigọi:1900.0191

Cũng trong phiên xét xử, các Luật sư của LVN Group liên tục xoáy sâu lý do vì sao ban điều hành không tổ chức đấu thầu mà lại chỉ định thầu cho Công ty Nhất Vinh và Công ty Toàn Cầu.

Ông Thuần và thuộc cấp Lương Cao Sơn (nguyên ủy viên Thư ký Ban Điều hành) khẳng định việc chỉ định thầu là phù hợp với nghị định 88. “Hai công ty này có tính chất đặc biệt về “công nghệ mã nguồn mở” mà các công ty trước đó tham gia quá trình mua máy không làm được. Hơn nữa, đây là những hợp đồng có đặc thù công nghệ cao, mang tính chất an toàn thông tin, bí mật quốc gia”, ông Thuần trình bày.

Còn bị cáo Sơn cho rằng, 112 là dự án lớn, có công nghệ cao nhưng lại chưa có quy chế riêng nên rất khó để có thể xây dựng được kế hoạch ngay từ đầu. Đây cũng là lý do trong thời gian triển khai thực hiện, ông Thuần đã có công văn đề nghị Bộ Tài chính cho áp dụng một cơ chế tài chính đặc thù. Ông còn đề nghị khoán gọn cho các bộ, các địa phương từng phần việc riêng cho phù hợp nhưng không được chấp nhận.

Trước việc bị VKS cáo buộc đã cố tình chia nhỏ các gói thầu để tránh đấu thầu, cựu trưởng Ban điều hành 112 biện minh rằng việc ký 23 hợp đồng với Công ty Cổ phần Công nghệ tin học ISA là bao gồm các việc thực hiện liên kết đào tạo, xây dựng hệ thống phần mềm dùng chung… được triển khai trong suốt thời gian 3 năm, không phải là cố ý tách nhỏ.

Theo ông, trong những hợp đồng in sách với các công ty, vì có nhiều loại cho nhiều đối tượng, nên chia nhỏ các hợp đồng là hoàn toàn khách quan.

“VKS cáo buộc rằng tôi cố ý làm trái và có động cơ chiếm đoạt tài sản, tôi cho rằng chưa thỏa đáng. Tôi cũng khẳng định là không có động cơ chia nhỏ dự án để vụ lợi”, ông nói.

HĐXX sẽ tiếp tục làm việc vào ngày 18/1.

(LVN GROUP FIRM: Biên tập.)

3. Thời gian nghị án theo quy định hiện nay là bao lâu ?

Tố tụng hình sự không quy định về thời gian nghị án nên có nhiều vụ tòa nghị án hàng tháng trời vẫn không có phán quyết. Cần rạch ròi giữa nghị án và hoãn tuyên. Gần đây, ở Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao có nhiều vụ án sau khi nghị án, HĐXX đã công bố sẽ tuyên án vào một thời điểm khác vì án phức tạp. Nhưng đến ngày tuyên án như đã ấn định, tòa vẫn chưa thể tuyên. Sự việc kéo dài đến vài tháng sau rồi tòa bỗng dưng quay lại phần xét hỏi…

Nghị án kéo dài

Ngày 20-11-2009, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã xử vụ nguyên trưởng thi hành án dân sự huyện Thống Nhất (nay là huyện Trảng Bom, Đồng Nai) Đỗ Ngọc Chất thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Sau khi nghị án, tòa tuyên bố ba ngày sau sẽ tuyên án. Đến hẹn, tòa lại không tuyên án mà tiếp tục hẹn khoảng ba tháng sau, ngày 13-1-2010 sẽ đưa ra phán quyết. Nhưng đến ngày hẹn, tòa quay lại khâu xét hỏi, tranh luận…

Mới đây là một vụ vô ý làm chết người tại Cà Mau. Sau phiên xử chiều 7-4, tòa thấy vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, cần thời gian nghiên cứu thêm nên hoãn tuyên, dời đến ngày 29-4. Nhưng ngày đó, tòa không tuyên như dự định mà dừng mãi. Cho đến nay tòa lại đưa giấy triệu tập xét xử lại…

Lý giải, thẩm phán chủ tọa cho biết vụ án này nghị án không thể kết lại vì chứng cứ chưa đầy đủ. Vì thế tòa đã chuyển hồ sơ sang VKS cùng cấp yêu cầu nghiên cứu thêm. Nay đã hoàn tất nên mở phiên xét xử lại (?!).

.Không thể nghị án vô thời hạn

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191

Nên hạn chế thời gian nghị án

Theo nhiều chuyên gia pháp luật, trong án hình sự, luật không quy định về thời gian nghị án. Thế nên HĐXX có thể nghị án hàng tháng trời cũng được, không vi phạm quy định. Thẩm phán Vũ Phi Long, Phó Chánh Tòa Hình sự TAND TP.HCM, lý giải thêm, việc không quy định thời gian nghị án kéo dài bao lâu là tôn trọng việc suy nghĩ cùng sự cân nhắc của HĐXX để đưa ra một phán quyết phù hợp với pháp luật nhất…

Tuy nhiên, có nhiều ý kiến đặt vấn đề, việc nghị án lâu như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các bị cáo. Một kiểm sát viên cao cấp Viện Phúc thẩm III (VKSND Tối cao) đề nghị đã đến lúc các nhà làm luật nên bổ sung quy định cụ thể, rõ ràng về thời gian nghị án. Bởi bỏ lửng như hiện nay, nó sẽ khiến bị cáo mang thân phận bị cáo… vô thời hạn. Mặt khác, việc kéo dài thời gian tuyên án còn có thể sẽ khiến HĐXX vi phạm nguyên tắc tòa án phải xét xử liên tục. Bởi luật quy định HĐXX không thể tham gia tố tụng vụ án khác khi còn đang nghị án ở một vụ nào đó. Trong khi hiện nay án nhiều, khó có thể nói HĐXX này chỉ chuyên tâm nghị án…

Theo vị kiểm sát viên này, cần quy định trường hợp nào được kéo dài thời gian nghị án, kéo dài trong bao lâu với án phức tạp. Cụ thể, với án đơn giản thời gian tối đa nghị án không quá năm ngày làm việc như án dân sự. Với án phức tạp thì thời gian nghị án có thể là 10 đến 15 ngày.

Cần rạch ròi giữa nghị án và hoãn tuyên

Thực tế, việc lạm dụng thời gian nghị án là không thể xảy ra. Bởi bất kỳ HĐXX nào cũng muốn giải quyết nhanh, rốt ráo vụ án, không lý gì muốn kéo dài. Nhưng cũng cần phải hiểu rằng luật không hạn chế thời gian nghị án nhưng có hạn chế với việc hoãn tuyên. Sau khi nghị án xong, HĐXX buộc phải ra một trong hai quyết định là tuyên án hoặc hoãn tuyên (vì phát hiện tình tiết mới, cần thời gian xem xét). Vấn đề là làm sao phân biệt và giải quyết rạch ròi giữa thời gian nghị án và thời gian hoãn tuyên để tránh sự nhầm lẫn không đáng có. Trong đó, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao sau khi đã có kết quả nghị án thì phải tuyên án trong vòng năm ngày.

Thẩm phán Vũ Phi Long,Phó Chánh Tòa Hình sự TAND TP.HCM

(LVN GROUP FIRM: Sưu tầm & biên tập)

4. Vài nét về hệ thống tài phán hành chính Hungary

Lịch sử tài phán hành chính của Hungary bắt đầu từ vài trăm năm trước đây. Quyền tài phán hành chính ở Hungary lần đầu tiên xuất hiện ở đạo luật XXVI năm 1896 có chức năng như một toà án hành chính riêng biệt.

Nó xét xử các vụ án liên quan đến tài chính hoặc các vụ án thông thường không qua Toà án. Sau khi quy định này hết hiệu lực năm 1949, ở phần Những quy định chung của các Thủ tục hành chính nhà nước (sau đây gọi tắt là SAP) tại đạo luật IV năm 1957 đã cho phép khả năng sửa đổi tư pháp đối với một số loại vụ án hành chính nhà nước (ví dụ như quyết định nộp thuế, từ chối đăng ký khai sinh, kết hôn hoặc chết, quyết định các vấn đề liên quan đến cư trú, quyết định từ chối phóng thích các tài sản bị nắm giữ trong quá trình xử lý hành chính…)

Vài nét về hệ thống tài phán hành chính Hungary

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191

Sự xem xét tư pháp

Như một quy định chung, mọi quyết định do cơ quan hành chính ban hành đều có thể bị toà án xem xét lại. Tuy nhiên, SAP cũng quy định một số trường hợp không được phép xem xét tư pháp như là một ngoại lệ. Căn cứ khoản 72(4) của SAP, không có sự xem xét tư pháp các quyết định hành chính trong một số trường hợp sau:

– Nếu đã bị loại trừ bởi pháp luật;

– Nếu quyết định hành chính phục vụ cho việc thực hiện quyết định cuối cùng của toà án;

– Nếu đó là quyết định tạm thời và quyết định cuối cùng phải đưa ra trong khoảng thời gian quy định của pháp luật;

– Nếu quyết định ảnh hưởng đến quan hệ pháp lý hành chính liên quan đến ngoại thương, vũ khí, chất nổ, chất phóng xạ và thuốc men, quy định độ tuổi quân dịch, các nghĩa vụ quốc phòng toàn dân, hành động bảo vệ trật tự an ninh quốc gia tại khu vực biên giới.

Thủ tục hành chính nhà nước (SAP) không định nghĩa thế nào là một quyết định tiêu chuẩn. Tuy nhiên, trong tiến trình tư pháp, một hành động hành chính nhà nước được coi là một phán quyết trường hợp tiêu chuẩn nếu cơ quan thụ lý giải quyết thông qua một quyết định cuối cùng về các tranh chấp cấu thành nên trường hợp đó. Về các hiệu ứng pháp lý, một phán quyết có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chuyển giao các quyền, đồng thời nó cũng có thể thiết lập lên các quyền hoặc nghĩa vụ. Ngoài ra, nó cũng có thể gây ra các hệ quả về mặt pháp lý.

Như một sự đối nghịch với SAP, năm 1991 Hungary ban hành các quy định về thuế (sau đây gọi tắt là RT) quy định rõ các quyết định về tài chính nào của các cơ quan thuế phải tuân thủ theo các sự điều chỉnh pháp lý và các chuẩn mực nào một phán quyết cụ thể cần phải có. Theo đoạn 86(1) của RT, mọi quyết định về nghĩa vụ nộp thuế, hoặc quyền và nghĩa vụ phát sinh của người nộp thuế hay người có nghĩa vụ phải nộp thuế – trừ các quyết định liên quan đến các khoản nộp chia làm nhiều lần và thanh toán trả góp – đều được coi là các phán quyết trường hợp tiêu chuẩn. Đoạn 4(5) của SAP cũng xây dựng một điều khoản làm căn cứ quy định rằng khi nào có kháng nghị của tổ chức, cá nhân toà hành chính có thể – bằng một thủ tục không gây lên sự tranh cãi – yêu cầu một cơ quan hành chính có trách nhiệm và thẩm quyền tiến hành lại tiến trình tố tụng. Điều đó có nghĩa rằng khách hàng công dân đó có cơ hội tìm ra biện pháp ngăn chặn nguồn gốc sâu xa của sự vi phạm do lỗi cẩu thả của các cơ quan hành chính. Trong trường hợp này, quyết định của Toà hành chính đáp ứng được các yêu cầu về một phán quyết tiêu chuẩn. Ngoài ra một quyết định của Toà hành chính về sự vắng mặt của nhà cầm quyền dựa trên sự thiếu vắng các quan hệ hành chính cũng được coi là một phán quyết tiêu chuẩn và tuân thủ theo sự điều chỉnh tư pháp.

Tại Hungary, tất cả các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của các Tòa án địa hạt và Toà án thành phố. Nếu một công dân khiếu nại với Tòa án về một quyết định hành chính thì hiệu lực của quyết định đó sẽ bị hoãn thi hành. Tuy nhiên, các cơ quan hành chính có thể tuyên bố thi hành quyết định ngay nếu quyết định đó đáp ứng yêu cầu quyền lợi của số đông quần chúng nhân dân.

Cũng liên quan đến Tòa án, các quyết định của cơ quan hành chính có thể bị Tòa án xem xét lại nếu có đơn yêu cầu, điều đó có nghĩa là quyết định hành chính sẽ bị kiểm tra bởi Tòa án. Các Tòa án trong quá trình kiểm tra quyết định hành chính chủ yếu kiểm tra xem các quyết định đó có tuân theo quy định của pháp luật hay không. Nếu có sự vi phạm pháp luật thì quyết định hành chính đó sẽ trở lên vô hiệu và bị hủy bỏ ngay lập tức. Như vậy, Tòa án có vai trò chủ đạo trong việc xét xử các vụ án hành chính, ngoài ra nó còn có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc ra quyết định của các cơ quan hành chính./.

(LVN GROUP FIRM: Biên tập.)
>> Tham khảo ngay dịch vụ: Luật sư tranh tụng tại tòa án và đại diện ngoài tố tụng

5. Biện pháp xử lý đối với người không chịu thi hành bản án ?

Trả lời:

Căn cứ theo Điều 4 của Luật thi hành án năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định về Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định như sau:

“Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng.

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án”

Ngoài ra, khoản 1 Điều 30 của luật thi hành án năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 về Thời hiệu yêu cầu thi hành án như sau:

“1. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Trong trường hợp bạn khởi kiện những người nợ tiền ra tòa, khi bản án (hoặc quyết định) của tòa án tuyên buộc những người nợ tiền phải thanh toán đầy đủ cho chị các khoản nợ có hiệu lực mà bên vay không tự nguyện hoàn trả thì theo quy định của Luật thi hành án, trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, chị có quyền làm đơn gửi tới cơ quan thi hành án cấp quận, huyện nơi tòa án xét xử sơ thẩm để yêu cầu thi hành án.”

Do đó, trong trường hợp bạn khởi kiện những người nợ tiền ra tòa, khi bản án (hoặc quyết định) của tòa án tuyên buộc những người nợ tiền phải thanh toán đầy đủ cho bạn các khoản nợ có hiệu lực mà bên vay không tự nguyện hoàn trả thì theo quy định của Luật thi hành án, trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, chị có quyền làm đơn gửi tới cơ quan thi hành án cấp quận, huyện nơi tòa án xét xử sơ thẩm để yêu cầu thi hành án.

Đơn yêu cầu thi hành án bao gồm các nội dung sau: Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu; tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án; nội dung yêu cầu thi hành án; thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

Người làm đơn yêu cầu thi hành án phải ghi rõ ngày, tháng, năm và ký tên hoặc điểm chỉ. Kèm theo đơn yêu cầu thi hành án, phải có bản án, quyết định được yêu cầu thi hành và tài liệu khác có liên quan, nếu có. Người yêu cầu thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án gồm: Phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.

Cơ quan thi hành án sẽ ra thông báo thi hành án, ấn định cho người phải thi hành án một thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Hết thời hạn tự nguyện nói trên, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.

Việc cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền sẽ được cơ quan thi hành án áp dụng một trong các biện pháp như khấu trừ tiền trong tài khoản; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án; thu tiền của người phải thi hành án đang giữ hoặc thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ hoặc phát mại tài sản của người phải thi hành án để thu nợ…

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hình sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group. Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng ./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty Luật LVN Group