1. Toà án Nhân quyền châu Mỹ (Inter-American Court of Human Rights)

Toà án Nhân quyền châu Mỹ thành lập năm 1978, thời điểm Công ước châu Mỹ bắt đầu có hiệu lực. Ra đời với mục đích thực thi và giải thích các quy định trong Công ước nhân quyền châu Mỹ có trụ sở Toà án tại San José (Costa Rica).

Tòa án gồm bảy thẩm phán, được đề cử và bầu bởi các thành viên Công ước với nhiệm kì 6 năm. Một thẩm phán chỉ có thể tái đắc cử một lần. Không có hai thẩm phán cùng quốc tịch. Các thẩm phán phải là người có tư cách đạo đức tốt, có khả năng trong lĩnh vực nhân quyền, có bằng cấp chứng nhận theo luật của nước mà thẩm phán là công dân hoặc của nước đề cử thẩm phán đó.

Có một Chủ tịch và một Phó Chủ tịch được Hội đồng thẩm phán bầu ra. Ngoài ta, Tòa án còn có Ban thư ký.

Nguyên tắc hoạt động của Tòa án Nhân quyền Châu Mỹ theo quy định tại quy chế Tòa án.

Tòa án sẽ tổ chức các phiên họp thường kì và phiên họp đặc biệt. Các phiên họp thường kì được tổ chức theo điều lệ Tòa án. Các phiên họp đặc biệt có thể được triệu tập bởi Chủ tịch hoặc theo yêu cầu của đa số thẩm phán.

Số lượng thẩm phán hội ý xét xử gồm năm thẩm phán.

Quyết định của Tòa là quyết định của đa số phiếu. Nếu có sự ngang bằng về số phiếu thì phiếu của chủ tịch sẽ quyết định, về điều trần, hội ý và quyết định: Phiên điều trần sẽ diễn ra công khai, trừ trường hợp đặc biệt theo quyết định khác của Tòa. Tòa sẽ hội ý kín. Việc bàn bạc đưa ra phán quyết của Tòa sẽ được giữ bí mật trừ khi Tòa có quyết định khác. Quyết định, phán quyết và ý kiến của Tòa sẽ được đưa ra phiên họp công khai và từ lúc này các bên sẽ nhận được thông báo.

2. Thẩm quyền xét xử của Tòa

Tòa có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và thẩm quyền tư vấn. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa được quy định tại Điều 61, 62, 63 Công ước châu Mỹ về nhân quyền. Thẩm quyền tư vấn được quy định tại Điều 64. Thẩm quyền của Tòa khá hạn chế: Tòa chỉ có thể tiếp nhận các vụ mà các nước liên quan có các điều kiện sau: 1. Đã thông qua Công ước nhân quyền châu Mỹ; 2. Đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa (vì năm 1992 mới có 13/35 nước kí chấp nhận thẩm quyền của Tòa); 3. ủy ban Đặc trách đã hoàn thành việc điều tra của mình và 4. Vụ việc được đưa ra tòa bởi uỷ ban Đặc trách hoặc quô’c gia liên quan trong vòng ba tháng kể từ sau bản báo cáo của ủy ban. Cá nhân hoặc người trình kiến nghị không thể độc lập đưa vụ việc ra trước Tòa.

Nếu ủy ban đưa vụ việc ra trước Toà án Nhân quyền thì ủy ban thông báo cho người trình kiến nghị. Khi đó, người trình kiến nghị hoặc người ủy quyền sẽ có cơ hội yêu cầu các biện pháp cần thiết, bao gồm sự bảo vệ an toàn cho nhân chứng và bảo vệ bằng chứng.

3. Thủ tục xét xử

Thủ tục xét xử tại Tòa được chia ra hai bước: tranh tụng viết và tranh tụng nói.

Trong phần tranh tụng viết: đơn đệ trình bao gồm: sự kiện, nạn nhân, bằng chứng và nhân chứng mà phía nộp đơn có ý định đưa ra trước Tòa, yêu cầu đền bù và chi phí. Nếu thư kí Tòa xét thấy đơn có thể chấp nhận thì sẽ gửi thông báo tới thẩm phán, quốc gia hoặc ủy ban (tùy xem ai là người nộp đơn), các nạn nhân, các quốc gia thành viên và trụ sỗ OAS.

Trong vòng 30 ngày kể từ sau thông báo, bất kì bên nào của vụ kiện cũng có thể đệ trình một bản tóm tắt những phản biện đầu tiên về đơn đó. Nếu thấy cần thiết, Tòa có thể triệu tập một buổi thẩm vấn những phản biện đó. Nếu không Tòa có thể gộp việc thẩm vấn đó và việc xác thực nội dung vào một buổi.

Trong vòng 60 ngày kể từ sau thông báo, bên bị phải gửi đến Tòa câu trả lời về đơn kiện, tuyên bố chấp nhận hoặc phản bác lại các sự kiện và tuyên bố chống lại. Phán quyết của Tòa có tính ràng buộc pháp lý.

4. Tranh tụng viết

Trong giai đoạn viết bằng văn bản, đơn kiện được nộp, nêu rõ các sự kiện của vụ án, các nguyên đơn, chứng cứ và các nhân chứng mà nguyên đơn dự định đưa ra trước phiên tòa, cùng các yêu cầu bồi thường và các chi phí. Nếu đơn được thư ký tòa án quyết định chấp nhận, thì thông báo về việc đó được gửi cho các thẩm phán, nhà nước hoặc Ủy ban Nhân quyền (tùy thuộc vào ai là người chuyển đơn tới tòa án), các nạn nhân hoặc thân nhân ruột thịt của họ, các nước thành viên khác, và trụ sở chính của “Tổ chức các quốc gia châu Mỹ”.

Trong vòng 30 ngày sau khi thông báo, bất cứ bên nào trong vụ kiện đều có thể gửi một bản tóm tắt các sự kiện trong vụ tố tụng trong đó có những lý lẽ bác bẻ sơ bộ đối với đơn kiện.

Nếu xét thấy cần thiết, Toà án có thể triệu tập một phiên điều trần để giải quyết các lý lẽ bác bẻ sơ bộ. Mặt khác, để tiết kiệm thủ tục, tòa án có thể giải quyết các lý lẽ bác bẻ sơ bộ của các bên cùng với lẽ phải trái của vụ án tại phiên điều trần này.

Trong vòng 60 ngày sau khi thông báo, bên bị cáo phải nộp một bản trả lời bằng văn bản về những điều nguyên đơn khiếu kiện, nêu rõ việc mình chấp thuận hoặc phản đối các sự kiện và các đòi hỏi của nguyên đơn.

Một khi bản trả lời này đã được nộp, thì bất kỳ bên nào trong vụ kiện đều có thể xin phép Chủ tịch tòa án cho nộp các bản biện hộ bổ sung trước khi bắt đầu giai đoạn thẩm vấn bằng miệng.

5. Tranh tụng nói

Chủ tịch tòa án đưa ra ngày tháng bắt đầu thủ tục tố tụng bằng lời nói, trong phiên tòa phải có sự hiện diện tối thiểu của 5 thẩm phán mới được coi là hợp lệ. Trong giai đoạn này, các thẩm phán có thể hỏi bất cứ ai trong 2 bên (nguyên và bị cáo) bất kỳ câu nào mà họ thấy phù hợp. Các nhân chứng, các chuyên gia làm chứng, và những người khác được nhận tham gia tố tụng, có thể – theo xét đoán của chủ tọa phiên tòa -, bị thẩm vấn bởi các đại diện của Ủy ban Nhân quyền hoặc nhà nước thành viên, hoặc bởi các nạn nhân, các thân nhân ruột thịt của họ, hoặc các người đại diện họ, nếu có. Chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định xem các câu hỏi có liên quan tới vấn đề hay không.

Sau khi nghe các nhân chứng cùng các chuyên gia và phân tích các chứng cứ được trình ra, Toà án đưa ra phán quyết của mình. Các thảo luận của các thẩm phán được thực hiện riêng tư kín đáo, một khi phán quyết đã được thông qua, thì nó được thông báo đến tất cả các bên liên quan. Nếu phán quyết không bao gồm các bồi thường áp dụng cho vụ này, thì chúng phải được xác định tại một buổi điều trần riêng hoặc thông qua một số thủ tục khác theo quyết định của Toà án. Phần bồi thường do Tòa án quy định có thể gồm cả tiền lẫn hiện vật không phải là tiền.

Dạng đền bù trực tiếp nhất là bồi thường bằng tiền cho các nạn nhân hoặc thân nhân ruột thịt của họ. Tuy nhiên, nhà nước cũng có thể được yêu cầu cấp cho nạn nhân các lợi ích bằng hiện vật, công khai nhìn nhận trách nhiệm của mình, thực hiện các bước để ngăn chặn các vi phạm tương tự có thể xảy ra trong tương lai, và các hình thức bồi thường phi tiền tệ khác.

Chẳng hạn, phán quyết của Tòa án tháng 11 năm 2001 trong vụ xét xử thảm sát Barrios Altos tại Lima, Peru trong tháng 11 năm 1991, trong đó 15 người bị giết bởi tiểu đội giết người (death squad) của Colina Group do nhà nước bảo trợ – Tòa án đã ra lệnh:

– Trả các khoản tiền 175.000 dollar Mỹ cho 4 người sống sót và cho thân nhân của các nạn nhân bị giết, và một khoản 250.000 dollar Mỹ cho gia đình của một trong những nạn nhân.

– Tòa án cũng yêu cầu Peru cấp cho các gia đình nạn nhân bảo hiểm y tế miễn phí và nhiều khoản trợ cấp giáo dục dưới hình thức khác, trong đó có các học bổng, đồng phục học sinh, dụng cụ trang bị và sách vở.

– Bãi bỏ hai luật ân xá gây tranh cãi;

– Đưa “tội giết người mà không có tòa án xét xử” – vào trong pháp luật của nước mình;

– Phê chuẩn Công ước quốc tế về khả năng không áp dụng các hạn chế theo luật định đối với các tội ác chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại; (International Convention on the Nonapplicability of Statutory Limitations to War Crimes and Crimes against Humanity);

– Công bố phán quyết của Tòa án trên phương tiện thông tin đại chúng quốc gia;

– Công khai xin lỗi về vụ việc (thảm sát trên) và cam kết ngăn chặn các sự kiện tương tự tái diễn trong tương lai; và

– Xây dựng một đài tưởng niệm cho các nạn nhân của vụ thảm sát

Trong khi không được kháng cáo các quyết định của Tòa án, các bên có thể nộp yêu cầu giải thích bản án nơi thư ký Tòa án trong vòng 90 ngày sau khi công bố bản án. Khi có thể, các yêu cầu việc giải thích sẽ được xử lý bởi cùng một ban thẩm phán đã đưa ra phán quyết này.

6. Chức năng tư vấn

Ngoài chức năng xét xử, Tòa án Nhân quyền châu Mỹ còn có chức năng tư vấn. Chức năng tư vấn của Tòa án này cho phép nó trả lời các tham khảo ý kiến được gửi tới bởi các cơ quan thuộc Tổ chức các quốc gia châu Mỹ và các nước thành viên, liên quan đến việc giải thích Công ước Nhân quyền hoặc các văn kiện khác chi phối nhân quyền ở châu Mỹ; nó cũng trao quyền cho Tòa án đưa ra lời khuyên về các luật quốc gia và dự án luật đề nghị, và để làm rõ chúng có phù hợp với các quy định của Công ước hay không. Việc tư vấn này dành cho tất cả các nước thành viên của Tổ chức các quốc gia châu Mỹ, không chỉ các nước có phê chuẩn Công ước và chấp nhận thẩm quyền xét xử của Tòa. Các trả lời của Tòa án cho những tham khảo ý kiến nêu trên được coi như các ý kiến tư vấn và được công bố tách riêng với các phán quyết có thể gây tranh cãi của Tòa.

Như đã từng xảy ra với mọi tổ chức quốc tế, cách giải quyết của Tòa án Nhân quyền liên Mỹ cũng bị chỉ trích. Một số chỉ trích gần đây nhất là từ Peru và Venezuela. Cho tới nay Trinidad và Tobago là quốc gia duy nhất đã rút ra khỏi hệ thống Công ước Nhân quyền này. Peru cũng tìm cách làm như vậy, nhưng đã không thực hiện theo các thủ tục thích đáng.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)