1.Chưa xác định được bị can có được tạm đình chỉ điều tra
>> Luật sư tư vấn luật hình sự trực tuyến, gọi: 1900.0191
Căn cứ theo điểm a khoản 1 điều 229 bộ luật hình sự 2015 quy định :
Điều 229. Tạm đình chỉ điều tra
1. Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra;
b) Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra;
c) Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
2. Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
3. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền lợi của họ.
2. Tạm đình chỉ điều tra theo thong tư liên tịch 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC-BTP
>> Xem thêm: Người giúp sức là gì ? Quy định pháp luật về người giúp sức
Điều 6. Tạm đình chỉ điều tra
1. Việc phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền điều tra và Viện kiểm sát về tạm đình chỉ điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 32 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trường hợp tạm đình chỉ điều tra theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự thì cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định tạm đình chỉ khi Viện kiểm sát quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tâm thần hoặc khi cơ quan có thẩm quyền kết luận tình trạng bệnh hiểm nghèo của bị can.
3. Khi có căn cứ tạm đình chỉ điều tra quy định tại Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự, trường hợp cần phối hợp về việc quản lý, xử lý vật chứng, tài liệu, đồ vật, tài sản tạm giữ; việc áp dụng, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (nếu có) và biện pháp giải quyết lý do tạm đình chỉ thì chậm nhất 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, cơ quan có thẩm quyền điều tra trao đổi bằng văn bản với Viện kiểm sát trước khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra.
4. Trường hợp tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự thì cơ quan có thẩm quyền điều tra thực hiện như sau:
a) Ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với bị can và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can;
b) Lập hồ sơ tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can; hồ sơ gồm các quyết định tố tụng, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án có liên quan đến bị can tạm đình chỉ. Quyết định tố tụng, tài liệu, chứng cứ phải là bản gốc hoặc bản sao y bản chính. Việc sao y thực hiện theo quy định của các bộ, ngành có liên quan.
5. Quyết định tạm đình chỉ điều tra được thực hiện theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
Việc gửi, thông báo quyết định tạm đình chỉ điều tra thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp vụ án do Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền, thì khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải thông báo bằng văn bản cho Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
6. Việc lập hồ sơ, quản lý hồ sơ vụ án tạm đình chỉ điều tra thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Thông tư liên tịch này và quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
7. Khi vụ án tạm đình chỉ điều tra thì cơ quan có thẩm quyền điều tra chỉ áp dụng các biện pháp để giải quyết lý do tạm đình chỉ.
3. Ý nghĩa của việc tạm đình chỉ điều tra
>> Xem thêm: Đặc xá là gì ? Khái niệm về đặc xá theo quy định của pháp luật
Quy định về tạm đình chỉ điều tra còn nhằm khắc phục hiện tượng quá tải, tồn động án ở khâu điều tra khi có những yếu tố bất khả kháng, để giảm bớt nhu cầu sử dụng lực lượng điều tra và giảm tối đa những chi phí vật chất không cần thiết cho hoạt động tố tụng này.
Mặt khác, tạm đình chỉ điều tra còn là một giải pháp có ý nghĩa chủ động trong việc đề phòng những oan sai có thể xảy ra trong thực tiễn điều tra.
Việc tạm đình chỉ điều tra sẽ giúp cơ quan điều tra giảm bớt khả năng phải xin gia hạn điều tra, khi không cần thiết phải kéo dài thời hạn chờ đợi để tiến hành các hoạt động điều tra cần thiết.
Điều luật quy định những trường hợp tạm đình chỉ điều tra, những điều kiện để tạm đình chỉ điều tra và trình tự, thủ tục thực hiện việc tạm đình chỉ điều tra. Căn cứ vào những quy định trong Điều luật thì tạm đình chỉ điều tra được thực hiện khi có một trong hai trường hợp sau đây:Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác;Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu mà đã hết thời hạn điều tra.
4.Điều kiện cho từng hợp tạm đình chỉ điều tra
>> Xem thêm: Điều kiện được tha tù trước thời hạn có điều kiện mới nhất 2021
Thứ nhất, đối với trường hợp tạm đình chỉ điều tra khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì luật quy định phải có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y. Trong trường hợp này, việc tạm đình chỉ điều tra có thể được thực hiện ở bất cứ thời điểm nào.
Theo quy định của Điều luật thì việc tạm đình chỉ là quyền của cơ quan có thẩm quyền tạm đình chỉ. Các cơ quan đó có thể không tạm đình chỉ nếu xét thấy, tình tiết bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác không cản trở việc làm sáng tỏ chân lý về vụ án. Tuy nhiên, nếu quyết định tạm đình chỉ vì lý do bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì phải trưng cầu giám định và phải có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y.
Hội đồng giám định y khoa được nói trong điều luật là cơ quan được cơ quan điều tra trưng cầu giám định. Khoản 3 Điều 205 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ luật này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định. Như vậy, trong trường hợp này việc trưng cầu giám định và ý kiến xác nhận của Hội đồng giám định y khoa là nhằm làm rõ tình trạng bệnh tâm thần của bị can xem bị can có đủ năng lực trách nhiệm hình sự hay không và bệnh hiểm nghèo khác của bị can có khả năng ảnh hưởng đến kết quả của các hoạt động điều tra hay không. Trong trường hợp bị can bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác có ảnh hưởng đến hoạt động điều tra thì cơ quan điều tra phải tạm đình chỉ điều tra cho đến khi tình trạng sức khỏe của bị can không còn cản trở việc tiến hành các hoạt động điều tra và phục hồi điều tra để tiếp tục làm rõ vụ án hình sự.
Thứ hai, trường hợp tạm đình chỉ điều tra do hết thời hạn điều tra, thường có thể có hai khả năng xảy ra, hoặc là chưa xác định được bị can, hoặc là không biết bị can đang ở đâu.
Điều đó có nghĩa là, để quyết định đình chỉ điều tra trong trường hợp này, cơ quan ra quyết định phải căn cứ vào khoản 1, Điều 172 của Bộ luật tố tụng hình sự và tính chất của vụ án, tội phạm đã được khởi tố và điều tra, để xác định còn thời hạn điều tra hay không. Trong trường hợp này, Điều luật không chỉ xác lập quyền tạm đình chỉ điều tra cho cơ quan tiến hành điều tra hoặc kiểm sát điều tra mà còn xác định đây là nghĩa vụ của các cơ quan điều tra phải tạm đình chỉ điều tra khi thời hạn điều tra đã hết. Vì thế Điều luật chỉ cho phép tạm đình chỉ điều tra khi chưa xác định được bị can mà đã hết thời hạn điều tra. Còn đối với trường hợp đã xác định được bị can, nhưng hết thời hạn điều tra mà không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra. Trong trường hợp đó, để bảo đảm tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự, cơ quan điều tra phải xin gia hạn điều tra.
Tuy nhiên, trước khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can. Quyết định truy nã bị can được thông báo rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng để mọi người có thể phát hiện bắt giữ.
Thứ ba, hết hạn điều tra ở đây được hiểu là đã hết kể cả thời hạn đã xin gia hạn điều tra theo những quy định tại khoản 2, Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì kết quả giám định có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều vấn đề khác của vụ án, đồng thời có thể là chứng cứ quan trọng làm căn cứ để phục hồi điều tra, theo như quy định tại Điều 235, Bộ luật tố tụng hình sự, nên nhà làm luật đã tách một khoản riêng quy định cho trường hợp hết thời hạn điều tra nhưng việc trưng cầu giám định chưa có kết quả. Trong trường hợp đó, mặc dầu các hoạt động điều tra được tạm đình chỉ, nhưng riêng việc giám định vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
Điều luật quy định khả năng tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can trong trường hợp vụ án có nhiều bị can. Theo Điều luật thì chỉ có thể tạm đình chỉ điều tra đối với bị can nào đó trong một vụ án có nhiều bị can, nếu việc tạm đình chỉ đó không liên quan đến tất cả các bị can. Tuy nhiên, cần hiểu chính xác hơn là việc tạm đình chỉ đó không liên quan đến bất cứ một bị can nào khác.
Theo quy định tại khoản 2 của Điều luật, Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát điều tra và gửi cho bị can, người bị hại để họ biết và thực hiện các quyền và nghĩa vụ cuả mình.
5.Bình luận và phân tích về tạm đình chỉ điều tra theo quy định
>> Xem thêm: Điều kiện để được giảm án, đặc xá quy định mới nhất năm 2021 ?
– Tạm đình chỉ điều tra là việc tạm ngừng tiến hành các hoạt động điều tra đối với vụ án hoặc đối với bị can vì những lý do nhất định.
Tạm đình chỉ điều tra là một giai đoạn điều tra, mà do những lý do khách quan cơ quan điều tra phải tạm dừng các hoạt động điều tra nhưng chưa đưa ra những kết luận cuối cùng về kết quả điều tra, chưa khẳng định về việc tiếp tục điều tra hay không.
– Ý nghĩa của việc quy định về tạm đình chỉ điều tra là nhằm hạn chế tối đa khả năng kéo dài thời hạn điều tra khi không cần thiết, đồng thời khắc phục việc lạm dụng thời hạn điều tra.
Quy định về tạm đình chỉ điều tra còn nhằm khắc phục hiện tượng quá tải, tồn động án ở khâu điều tra khi có những yếu tố bất khả kháng, để giảm bớt nhu cầu sử dụng lực lượng điều tra và giảm tối đa những chi phí vật chất không cần thiết cho hoạt động tố tụng này.
Mặt khác, tạm đình chỉ điều tra còn là một giải pháp có ý nghĩa chủ động trong việc đề phòng những oan sai có thể xảy ra trong thực tiễn điều tra.
Việc tạm đình chỉ điều tra sẽ giúp cơ quan điều tra giảm bớt khả năng phải xin gia hạn điều tra, khi không cần thiết phải kéo dài thời hạn chờ đợi để tiến hành các hoạt động điều tra cần thiết.
– Điều luật quy định những trường hợp tạm đình chỉ điều tra, những điều kiện để tạm đình chỉ điều tra và trình tự, thủ tục thực hiện việc tạm đình chỉ điều tra. Căn cứ vào những quy định trong Điều luật thì tạm đình chỉ điều tra được thực hiện khi có một trong hai trường hợp sau đây:
+ Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác;
+ Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu mà đã hết thời hạn điều tra.
– Điều luật quy định các điều kiện cụ thể cho từng trường hợp tạm đình chỉ điều tra
+ Đối với trường hợp tạm đình chỉ điều tra khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì luật quy định phải có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y. Trong trường hợp này, việc tạm đình chỉ điều tra có thể được thực hiện ở bất cứ thời điểm nào.
+ Theo quy định của Điều luật thì việc tạm đình chỉ là quyền của cơ quan có thẩm quyền tạm đình chỉ. Các cơ quan đó có thể không tạm đình chỉ nếu xét thấy, tình tiết bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác không cản trở việc làm sáng tỏ chân lý về vụ án. Tuy nhiên, nếu quyết định tạm đình chỉ vì lý do bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì phải trưng cầu giám định và phải có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y.
Hội đồng giám định y khoa được nói trong điều luật là cơ quan được cơ quan điều tra trưng cầu giám định. Khoản 3 Điều 205 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: khi có những vấn đề cần được xác định (theo quy định tại khoản 3 điều này), hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định. Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ.
Như vậy, trong trường hợp này việc trưng cầu giám định và ý kiến xác nhận của Hội đồng giám định y khoa là nhằm làm rõ tình trạng bệnh tâm thần của bị can xem bị can có đủ năng lực trách nhiệm hình sự hay không và bệnh hiểm nghèo khác của bị can có khả năng ảnh hưởng đến kết quả của các hoạt động điều tra hay không. Trong trường hợp bị can bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác có ảnh hưởng đến hoạt động điều tra thì cơ quan điều tra phải tạm đình chỉ điều tra cho đến khi tình trạng sức khỏe của bị can không còn cản trở việc tiến hành các hoạt động điều tra và phục hồi điều tra để tiếp tục làm rõ vụ án hình sự.
+ Trường hợp tạm đình chỉ điều tra do hết thời hạn điều tra, thường có thể có hai khả năng xảy ra, hoặc là chưa xác định được bị can, hoặc là không biết bị can đang ở đâu.
Điều đó có nghĩa là, để quyết định đình chỉ điều tra trong trường hợp này, cơ quan ra quyết định phải căn cứ vào khoản 1, Điều 172 của Bộ luật tố tụng hình sự và tính chất của vụ án, tội phạm đã được khởi tố và điều tra, để xác định còn thời hạn điều tra hay không. Trong trường hợp này, Điều luật không chỉ xác lập quyền tạm đình chỉ điều tra cho cơ quan tiến hành điều tra hoặc kiểm sát điều tra mà còn xác định đây là nghĩa vụ của các cơ quan điều tra phải tạm đình chỉ điều tra khi thời hạn điều tra đã hết. Vì thế Điều luật chỉ cho phép tạm đình chỉ điều tra khi chưa xác định được bị can mà đã hết thời hạn điều tra. Còn đối với trường hợp đã xác định được bị can, nhưng hết thời hạn điều tra mà không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra. Trong trường hợp đó, để bảo đảm tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự, cơ quan điều tra phải xin gia hạn điều tra.
Tuy nhiên, trước khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can. Quyết định truy nã bị can được thông báo rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng để mọi người có thể phát hiện bắt giữ. Hết hạn điều tra ở đây được hiểu là đã hết kể cả thời hạn đã xin gia hạn điều tra theo những quy định tại khoản 2, Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự.
– Vì kết quả giám định có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều vấn đề khác của vụ án, đồng thời có thể là chứng cứ quan trọng làm căn cứ để phục hồi điều tra, theo như quy định tại Điều 235, Bộ luật tố tụng hình sự, nên nhà làm luật đã tách một khoản riêng quy định cho trường hợp hết thời hạn điều tra nhưng việc trưng cầu giám định chưa có kết quả. Trong trường hợp đó, mặc dầu các hoạt động điều tra được tạm đình chỉ, nhưng riêng việc giám định vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
– Điều luật quy định khả năng tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can trong trường hợp vụ án có nhiều bị can. Theo Điều luật thì chỉ có thể tạm đình chỉ điều tra đối với bị can nào đó trong một vụ án có nhiều bị can, nếu việc tạm đình chỉ đó không liên quan đến tất cả các bị can. Tuy nhiên, cần hiểu chính xác hơn là việc tạm đình chỉ đó không liên quan đến bất cứ một bị can nào khác.
– Theo quy định tại khoản 2 của Điều luật, Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát điều tra và gửi cho bị can, người bị hại để họ biết và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0159hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hình sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.
Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty chúng tôi. Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật MInh KHuê