1. Cơ quan lập pháp là gì ?

Cơ quan lập pháp là cơ quan thực hiện chức năng lập pháp của một quốc gia là làm luật và sửa đổi luật.

Theo Hiến pháp năm 1992, cơ quan lập pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hiến pháp không chỉ xác định Quốc hội là cơ quan lập pháp mà còn nhấn mạnh: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, đồng thời, Quốc hội cũng là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.

Lập pháp theo nghĩa rộng tuy là chức năng tiêu biểu của Quốc hội với tính cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, trực tiếp chịu trách nhiệm trước nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân, nhưng không phải là chức năng duy nhất của Quốc hội.

Với tính cách là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội còn là cơ quan quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

Tuy nhiên, lập pháp theo nghĩa rộng là chức năng tiêu biểu của Quốc hội, nên thông thường Quốc hội cũng được gọi một cách chung nhất là cơ quan lập pháp để phân biệt với cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Vì vậy, nói đến cơ quan lập pháp thì mọi người nghĩ ngay đến Quốc hội.

Hơn nữa, theo hiến pháp của một số nước, luật là hình thức văn bản pháp luật phổ biến của Quốc hội, ngay cả trong trường hợp mà nội dung của văn bản được Quốc hội thông qua là thuộc về việc giải quyết các chức danh cao cấp của Nhà nước, có tính cá biệt thì tên văn bản vẫn được mệnh danh là luật và luật trở thành hình thức văn bản pháp luật phổ biến của Quốc hội. Theo Hiến pháp nước ta, ngoài luật, Quốc hội còn có một hình thức văn bản nữa là nghị quyết, như nghị quyết về nhiệm vụ kinh tế – xã hội hàng năm, nghị quyết về thi hành Hiến pháp, thi “ hành một luật và trong các nghị quyết của Quốc hội có nghị quyết chứa đựng quy phạm pháp luật và trường hợp đó được gọi là “nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật”, xét về mặt hiệu lực, có giá trị như một đạo luật.

Cơ quan lập pháp ở các nước, theo quy định của hiến pháp, thường có tên gọi khác nhau như nghị viện, quốc hội, viện dân biểu, Đuma quốc gia, Xô Viết tối cao, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc…

Một nhà nước để thực hiện được những chính sách mình đề ra, thực hiện duy trì trật tự xã hội theo khuôn mẫu định sẵn, thì cần có hệ thống luật pháp thống nhất, là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước.

2. Lập pháp là gì ?

Lập pháp là một trong những chức năng vô cùng quan trọng của nhà nước, lập pháp được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách, thực hiện nghiên cứu soạn thảo hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với chủ trương hoạt động của nhà nước.

Lập pháp trong mối tương quan khác nhau sẽ mang nghĩa khác nhau, do vậy lập pháp sẽ được hiểu theo nghĩa như sau:

– Lập pháp được hiểu là việc các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, thực hiện nghiên cứu soạn thảo ra Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật và sửa đổi văn bản pháp luật.

Việc thực hiện soạn thảo và ban hành Hiến pháp và các văn bản pháp luật phải tuân theo trình tự nghiêm ngặt, chặt chẽ, đảm bảo các đạo luật trong Hiến pháp có thể thực thi trong thực tế.

Hiến pháp là đạo luật gốc của quốc gia, là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, là khuôn mẫu quy định những vấn đề cơ bản của đất nước như chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bản chất nhà nước,…

Các văn bản luật dưới Hiến pháp chỉ quy định cụ thể trong các lĩnh vực, tuân theo tinh thần của Hiến pháp không được trái với quy định của Hiến pháp.

Các nhà làm luật sẽ tuân theo tinh thần trên để thực hiện soạn thảo sao cho phù hợp với cơ chế hoạt động của nhà nước, mục tiêu nhà nước muốn hướng tới, đảm bảo cho việc thực thi pháp luật.

– Lập pháp còn được hiểu theo nghĩa là việc các cơ quan thực hiện nghiên cứu soạn thảo và ban hành ra văn bản pháp luật, thực hiện sửa đổi luật.

Theo khái niệm này lập pháp được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, không bao gồm việc soạn thảo ban hành ra Hiếp pháp mà chỉ thực hiện soạn thảo ban hành các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp.

Ví dụ điển hình các văn bản pháp luật: Bộ luật dân sự, bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật tố tụng dân sự, luật đất đai, luật hôn nhân và gia đình, bộ luật lao động…

Nhằm hiểu rõ hơn về lập pháp là gì ? Cơ quan lập pháp là gì ? quý khách hàng đừng bỏ lỡ những chia sẻ tiếp theo về cơ quan lập pháp của chúng tôi dưới đây.

3. Cơ quan lập pháp là gì ?

Cơ quan lập pháp là một trong ba cơ quan trọng yếu thực hiện quyền lực của nhà nước, cơ quan này được nhà nước giao nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện chức năng lập pháp của nhà nước.

Cơ quan lập pháp ở mỗi mô hình nhà nước thì cơ quan nắm giữ quyền lập pháp khác nhau, mang tên gọi khác nhau. Cơ quan lập pháp phổ biến với các quốc gia trên thế giới là nghị viện và quốc hội.

Nước ta hiện nay cơ quan lập pháp thuộc về quốc hội, thực hiện lập hiến và lập pháp. Do quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, thể hiện quyền lực nhà nước, nên việc quốc hội thực hiện ban hành các văn bản quy phạm pháp luật sẽ có giá trị pháp lý cao và bắt buộc toàn dân phải thực hiện.

Việc thực hiện quyền lập pháp ban hành và sửa đối Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp phải được thực hiện tuân theo trình tự nghiêm ngặt, chặt chẽ theo từng công đoạn.

– Việc lập pháp thực hiện theo các công đoạn như sau:

+ Soạn thảo Hiến pháp, văn bản pháp luật.

+ Thực hiện thẩm tra văn bản đã soạn thảo.

+ Thực hiện lấy ý kiến của văn bản từ Ủy ban thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội, từ nhân dân…

+ Thực hiện thông qua Hiến pháp, văn bản pháp luật.

Công bố văn bản trên các phương tiện thông tin truyền thông, phổ biến rộng rãi đến mọi người.

4. Quyền lập pháp và hoạt động lập pháp

Quyền lực nhà nước được tạo thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc phân tách quyền lực nhà nước thành ba quyền nói trên bắt nguồn từ học thuyết tam quyền phân lập mà cha đẻ của nó là John Locke. Học thuyết của ông sau đó được phát triển bởi nhà xã hội học và luật học người Pháp Montesquieu. Trong bài phân tích về thực trạng Hiến pháp nước Anh đầu thế kỷ 18, Montesquieu kết luận rằng, ở Anh, sự tự do của công dân chỉ được đảm bảo khi quyền lực và các chức năng của nhà nước được phân chia cho ba cơ quan khác nhau là lập pháp, hành pháp và tư pháp1. Quyền lập pháp là quyền ban hành pháp luật còn quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật và quyền tư pháp là quyền bảo vệ pháp luật.

Một trong những bước tiến quan trọng trong nhận thức về tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta thời kỳ đổi mới là thừa nhận những hạt nhân hợp lý của thuyết tam quyền phân lập, theo đó mặc dù trong tổ chức bộ máy nhà nước không có sự phân chia và đối trọng giữa các nhánh quyền lực nhưng thừa nhận sự phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền ấy. Nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), theo đó “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Theo quy định tại Điều 83 của bản Hiến pháp này thì “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và quyền lập pháp”. Như vậy, quyền làm luật được trao cho Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do toàn thể nhân dân bầu ra.

Khái niệm quyền lập pháp (quyền làm luật) cần được phân biệt với khái niệm quyền soạn thảo luật. Pháp luật cho phép một đạo luật có thể được rất nhiều chủ thể khác nhau soạn thảo và trình lên Quốc hội. Trong thực tế nước ta, đa số các đạo luật đều do Chính phủ soạn thảo, một số ít được thực hiện bởi các chủ thể khác như Hội Luật gia, Hội Liên hiệp phụ nữ, Mặt Trận tổ quốc…2 Như vậy, chủ thể có quyền lập pháp không nhất thiết là chủ thể soạn thảo luật. Nội dung cốt lõi của quyền lập pháp chính là quyền đồng ý hoặc không đồng ý thông qua một chính sách hoặc một dự luật nào đó. Quy định Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền lập pháp nghĩa là chỉ Quốc hội mới có quyền thông qua các dự án luật, tạo nên những chuẩn mực buộc các chủ thể trong xã hội phải thực hiện. Vấn đề đặt ra là tại sao Quốc hội, với tư cách là cơ quan lập pháp, không tự mình soạn thảo luật mà lại trao cho các chủ thể khác thực hiện công việc này. Theo quy định của pháp luật, các cơ quan của Quốc hội và ngay cả đại biểu Quốc hội đều có quyền soạn và trình dự án luật. Tuy nhiên, đa phần các dự luật đều do Chính phủ soạn thảo là vì pháp luật cần phải bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn của quản lý đất nước. Nhu cầu ban hành chính sách, pháp luật luôn xuất phát từ thực tế sinh động của đời sống xã hội mà ở đó hành pháp là chủ thể đầu tiên phát hiện ra, “va chạm” và đòi hỏi phải giải quyết nó. Nhu cầu ấy được phản ánh tới Quốc hội thông qua chương trình làm việc của Chính phủ. Quốc hội chỉ ban hành luật dựa trên nhu cầu chính sách do Chính phủ báo cáo3, và ngược lại, nếu Quốc hội bỏ qua cơ sở này thì pháp luật chỉ trở thành món đồ nhân tạo, vô hồn, không được xã hội tiếp nhận. Nói về mối quan hệ này, TS. Nguyễn Sĩ Dũng đã có khẳng định rất hay như sau “Thiếu sự tương tác này giữa lập pháp và hành pháp, thì cho dù quy trình lập pháp có được thiết kế tinh vi đến đâu chăng nữa, nó cũng chỉ là một quy trình nhân tạo. Sản phẩm tất yếu của một quy trình nhân tạo là các đạo luật nhân tạo. Các đạo luật nhân tạo không cần cho cuộc sống. Nhà nước vẫn có thể áp đặt chúng cho xã hội. Tuy nhiên, những cố gắng như vậy không sớm thì muộn sẽ làm cho các cơ quan của nhà nước hụt hơi. Cuộc sống như ao bèo, sẽ phẳng lặng trở lại sau một hồi xao động”4. Chính vì quan hệ gắn bó giữa nhu cầu lập pháp và nhu cầu quản lý xã hội mà Quốc hội cần có Chính phủ và các chủ thể khác tham gia vào hoạt động lập pháp.

Từ những phân tích trên cho thấy, soạn thảo luật chỉ là một công đoạn của hoạt động lập pháp mà không phải một yếu tố cấu thành quyền lập pháp. Nói cách khác, nếu như quyền lập pháp là quyền riêng có của Quốc hội thì hoạt động lập pháp lại có sự tham gia của nhiều chủ thể, thông qua một quy trình bao gồm nhiều bước khác nhau. Quy trình lập pháp được hiểu là trình tự các bước được tiến hành theo một trật tự chặt chẽ, nghiêm ngặt trong quá trình làm luật, được điều chỉnh bởi Hiến pháp và luật, bao gồm các giai đoạn từ sáng kiến pháp luật, soạn thảo văn bản, trình dự án luật, thẩm tra, thảo luận và thông qua5.

Hiện nay, quy trình lập pháp ở nước ta đã được luật hóa bằng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Căn cứ theo trình tự thời gian ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể thấy quy trình lập pháp ở nước ta bao gồm hai giai đoạn chính, thứ nhất là lập và quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và thứ hai là chuẩn bị, xem xét và thông qua các dự án luật. Căn cứ vào chủ thể ban hành có thể chia quy trình lập pháp thành công đoạn Chính phủ và công đoạn Quốc hội. Công đoạn Chính phủ bao gồm các hoạt động đề xuất chương trình xây dựng pháp luật, phân tích chính sách và soạn thảo luật. Công đoạn Quốc hội thực hiện các hoạt động thẩm tra dự thảo luật, thảo luận, cho ý kiến và biểu quyết thông qua. Công đoạn Chính phủ là công đoạn thiết kế luật, đòi hỏi nhiều thời gian, sức lực và tài lực. Nếu công đoạn này thực hiện tốt thì công đoạn Quốc hội sẽ diễn ra được nhanh chóng và kết quả là Quốc hội sẽ có nhiều thời gian để thực hiện hai chức năng quan trọng khác của mình, đó là chức năng giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Thời gian qua, Quốc hội nước ta áp dụng quy trình thông qua luật hai bước, theo đó mỗi đạo luật sẽ được xem xét tại hai kỳ họp Quốc hội, kỳ họp trước cho ý kiến và kỳ họp sau thông qua. Cách làm này đã thể hiện ưu điểm trong việc đảm bảo thời gian cho ban soạn thảo tiếp thu và chỉnh lý dự thảo luật. Tuy nhiên, nếu so sánh với hoạt động thảo luận và thông qua luật ở nhiều nước trên thế giới thì thấy rằng Quốc hội Việt Nam mất nhiều thời gian hơn. Một trong những lý do của thực trạng này là chất lượng của công đoạn Chính phủ trong quy trình làm luật chưa cao khiến cho các dự luật không nhanh chóng thuyết phục được các đại biểu thông qua. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng của công đoạn Chính phủ là yêu cầu cần thiết hàng đầu để cải thiện hiệu quả của hoạt động lập pháp.

Khi bàn đến quyền lập pháp của Quốc hội thì cũng cần xem xét khái niệm lập pháp ủy quyền. Đây là trường hợp Quốc hội ủy quyền cho Chính Phủ và các cơ quan nhà nước khác như Tòa án, Viện Kiểm sát hoặc trong một số trường hợp là các tổ chức chính trị – xã hội… ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong đa số các trường hợp, các đạo luật đều có quy định về việc Quốc hội trao quyền cho các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là Chính phủ ban hành các văn bản pháp quy hành chính để chi tiết hóa nội dung các đạo luật đó.

Hiện tượng lập pháp ủy quyền không có nghĩa là Quốc hội chia sẻ quyền lập pháp của mình cho các cơ quan khác. Bản chất của lập pháp ủy quyền là đảm bảo tính ổn định tương đối của các văn bản luật trong khi vẫn điều chỉnh được những quan hệ xã hội vô cùng đa dạng của đời sống xã hội. Quốc hội chỉ giao cho các cơ quan nhà nước khác ban hành các quy định điều chỉnh những quan hệ xã hội thường xuyên thay đổi, bởi lẽ nếu đưa những quan hệ này vào luật thì sẽ dẫn đến hệ quả là luật của Quốc hội cũng thường xuyên phải thay đổi theo. Điều đó làm cho tuổi thọ của một đạo luật không cao. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, nếu lạm dụng lập pháp ủy quyền thì hiện tượng này lại thể hiện sự yếu kém của Quốc hội. Nếu thực tế nảy sinh nhu cầu nhưng nhu cầu ấy không được giải quyết bằng luật do Quốc hội ban hành mà lại ủy quyền cho Chính phủ giải quyết thì sẽ dẫn đến giả thiết rằng Quốc hội né tránh những vấn đề quan trọng của xã hội. Và như vậy, Quốc hội không thực hiện tròn trách nhiệm của cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân. Hơn nữa, việc áp dụng lập pháp ủy quyền quá mức có thể khiến Chính phủ chậm chễ ban hành văn bản pháp luật vì hai lý do: một là có thể Chính phủ bị quá tải công việc và hai là Chính phủ không vội vàng ban hành quy phạm pháp luật để tự ràng buộc mình vào các quy định đó. Thực tế quản lý bằng công văn, chỉ thị miệng vẫn dễ dàng hơn nhiều việc tuân theo một khuôn khổ gò bó của pháp luật.

Tóm lại, lập pháp ủy quyền là điều không thể tránh khỏi trong hoạt động của bất kỳ nhà nước nào trên thế giới. Tuy nhiên, lập pháp ủy quyền có điểm mạnh và điểm yếu nhất định. Việc xác định giới hạn ủy quyền là một trong những yêu cầu quan trọng để nâng cao chất lượng lập pháp của mỗi quốc gia.

5. Mô hình nào cho quy trình lập pháp

Mặc dù Hiến pháp trao quyền soạn thảo luật cho nhiều chủ thể nhưng trong thực tế hoạt động này chủ yếu được thực hiện bởi Chính phủ. Chính vì vậy, quy trình lập pháp được xác định bao gồm công đoạn Chính phủ và công đoạn Quốc hội, trong đó công đoạn Chính phủ là điều kiện cần, đảm bảo cho một đạo luật có chất lượng tốt. Việc soạn thảo luật là bước khởi đầu nhưng cũng là khâu đặt vấn đề và giải quyết vấn đề đối với các nhu cầu và đòi hỏi của xã hội. Phần dưới đây sẽ tập trung vào việc tìm kiếm mô hình cho việc soạn thảo luật thuộc công đoạn Chính phủ.

Trong thực tế, giữa pháp luật và chính sách có mối quan hệ chặt chẽ và đan xen. Thực vậy, mỗi đạo luật được ban hành đều bao hàm trong nó những chính sách nhất định, liên quan đến các mặt của quốc kế dân sinh. Chẳng hạn như chính sách về quyền sở hữu tư nhân được quy định trong Hiến pháp và Bộ luật Dân sự, chính sách về quyền tự do kinh doanh được thể hiện trong Luật Doanh nghiệp. Như vậy, xét về bản chất, làm luật chính là làm chính sách. Chúng ta không nên biệt lập chính sách và pháp luật theo hướng chính sách là của Đảng, pháp luật là của Nhà nước, do các cơ quan nhà nước ban hành. Pháp luật luôn gắn với các chính sách của nền hành chính công, bởi vì nhu cầu lập pháp chính là bắt nguồn từ hành pháp6. Như vậy, làm luật cũng chính là làm chính sách. Tùy từng trường hợp cụ thể, người làm chính sách phải biết sử dụng một cách hợp lý mô hình chính sách “từ trên xuống” hoặc mô hình “từ dưới lên”7. Mô hình thứ nhất là trường hợp Nhà nước áp đặt pháp luật cho xã hội, hoạt động lập pháp tách rời với nhu cầu chính sách. Mô hình này diễn ra theo trình tự ban hành pháp luật trước, sau đó thực hiện pháp luật trên thực tế và cuối cùng là tổng kết, rút kinh nghiệm và sửa đổi luật. Kết quả tất yếu của những đạo luật được ban hành theo mô hình này là tuổi thọ của luật không cao hoặc luật không được thực tế chấp nhận. Ngược lại, mô hình thứ hai đòi hỏi người làm chính sách/ luật phải thực hiện nghiên cứu thực tế, xuất phát từ các bằng chứng và số liệu có được từ điều tra xã hội học, thông qua quá trình xử lý các số liệu đó để đưa ra các quy định phù hợp. Việc làm chính sách “từ dưới lên” như vậy sẽ tránh được tính xa rời thực tế của các đạo luật.

Mô hình “từ dưới lên” có thể khiến cho quá trình làm luật mất nhiều thời gian hơn và chi phí làm luật cao hơn mô hình “từ trên xuống”. Tuy nhiên, hiệu quả mà nó mang lại sẽ lớn hơn rất nhiều. Các văn bản pháp luật sẽ có tuổi thọ cao hơn vì phù hợp với thực tế và được thực tế chấp nhận. Pháp luật của nhà nước sẽ được tôn trọng sử dụng thay vì việc người dân tự đề ra “pháp luật” cho riêng mình8.

Để đảm bảo pháp luật thể hiện được nhu cầu thực tiễn của cuộc sống thì đòi hỏi tất yếu là mỗi dự thảo luật khi trình Quốc hội phải bao gồm trong nó bản phân tích chính sách. Xét đến cùng thì Bản phân tích chính sách chính là thể hiện quy trình lập pháp theo mô hình “từ dưới lên”. Vấn đề đặt ra là báo cáo phân tích chính sách đi kèm các dự thảo luật phải đảm bảo những yêu cầu gì ? Từ lý thuyết của Khoa học Chính sách công, chúng tôi cho rằng Quốc hội chỉ chấp nhận những báo cáo chính sách nếu ít nhất báo cáo ấy thỏa mãn yêu cầu cơ bản, đó là phải phân tích được vai trò, quyền, lợi ích và mức độ quan tâm của các bên có liên quan đến chính sách sắp được ban hành (sau đây gọi tắt là phân tích các bên liên quan). Một trong các yêu cầu hàng đầu của phân tích chính sách theo mô hình “từ dưới lên” là người làm chính sách phải xuất phát từ các số liệu thực tế thu được thông qua khảo sát và điều tra xã hội học. Trong số những số liệu ấy thì thông tin về các chủ thể (các bên) có liên quan đến chính sách là yếu tố quan trọng hàng đầu. Xét đến cùng, mục đích của việc ban hành chính sách/luật là để dung hòa lợi ích giữa các nhóm chủ thể khác nhau trong xã hội. Điều này được chứng minh không chỉ bởi các lý thuyết hiện đại gần đây mà đã từ lâu, học thuyết Mác cũng khẳng định điều này khi cho rằng nhà nước và pháp luật chỉ ra đời khi xã hội xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp trở nên không thể điều hòa được. Pháp luật trở thành công cụ để nhà nước giải quyết những muân thuẫn đó. Điều đó cho thấy rằng người làm chính sách/luật phải hình dung được chính sách/luật sắp được ban hành sẽ tác động đến những chủ thể nào, từ đó có những tham vấn cần thiết trước khi soạn thảo các quy định. Tiếp đến, những chủ thể ấy cần được sắp xếp theo thứ tự dựa trên tầm quan trọng của nó đối với chính sách. Chẳng hạn như, khi ban hành chính sách hạn chế người dân sử dụng xe máy, người làm chính sách cần phải liệt kê càng nhiều càng tốt các chủ thể có liên quan như người sử dụng xe máy, nhà sản xuất xe máy, cơ quan quản lý nhà nước về giao thông, cảnh sát giao thông và những đối tượng khác như người đi bộ, người sử dụng phương tiện là ô tô cá nhân hoặc phương tiện công cộng… Ngoài ra, còn có những chủ thể liên quan gián tiếp khác như các nhà đầu tư vốn, các tổ chức xã hội, các tổ chức trợ giúp kỹ thuật và tài trợ cho hạ tầng giao thông… Từ việc liệt kê tất cả các chủ thể có liên quan như trên, những chủ thể có ảnh hưởng tới hoặc bị tác động nhiều nhất bởi chính sách sẽ được xác định để tham vấn. Chẳng hạn như trong ví dụ trên, nhà làm luật nên ưu tiên tham vấn ý kiến của các chủ thể như người đi xe máy, người sử dụng phương tiện công cộng, công ty cung cấp dịch vụ vận chuyển công cộng, cơ quan quản lý giao thông và cảnh sát giao thông. Số liệu điều tra hoặc tham vấn ý kiến có được từ các chủ thể này được sử dụng như nguồn thông tin tin cậy cho việc ban hành chính sách9.

Một chính sách tốt là chính sách đảm bảo tối đa hóa lợi ích của các bên có liên quan và mang lại hiệu quả xã hội. Điều này không đồng nghĩa với việc chính sách phải đảm bảo lợi ích của tất cả các bên liên quan và cũng không có nghĩa là chính sách được ban hành theo ý kiến của số đông. Thông tin có được từ các bên tham vấn chỉ là cơ sở dữ liệu ban đầu cần tiếp tục xử lý. Vai trò của nhà làm luật là dung hòa lợi ích của các chủ thể trên cơ sở đặt hiệu quả xã hội và hiệu quả phân bổ nguồn lực lên trên hết. Để xác định hiệu quả của một chính sách, nhà làm luật có thể sử dụng nhiều công cụ phân tích chính sách khác nhau như công cụ RIA (Regulatory Impact Assessment – dự báo tác động điều chỉnh của quy phạm pháp luật), công cụ phân tích chi phí – lợi ích hoặc công cụ phân tích rủi ro…10. Chính sách/pháp luật có thể không phù hợp với ý kiến của số đông được tham vấn nếu nhà làm luật, bằng phân tích của mình, dự báo được lợi ích to lớn mà pháp luật sẽ mang lại khi nó được ban hành. Điều này có thể được minh chứng bằng một ví dụ điển hình ở nước ta, liên quan đến quy định đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy. Có lẽ khi còn là dự thảo, đa số ý kiến cho rằng không thể áp dụng quy định này mọi lúc, mọi nơi đối với người đi xem máy mà chỉ nên áp dụng trên các tuyến quốc lộ. Lý do được nhiều người đưa ra là ở một nước có khí hậu nóng ẩm như Việt Nam thì rất bất tiện khi đội mũ bảo hiểm. Hơn nữa, các cơ quan, công sở không thể đủ không gian cho việc bảo quản mũ, và rất nhiều lý do khác. Tuy nhiên, quy định về bắt buộc đội mũ bảo hiểm ra đời đã chứng minh rằng lợi ích xã hội do quy định này mang lại đã vượt xa những bất tiện mà các lý do ở trên đưa ra.

Ngoài ra, mô hình chính sách “từ dưới lên” đòi hỏi báo cáo phân tích chính sách phải sử dụng công cụ phân tích thể chế so sánh, nếu cần thiết. Phân tích thể chế so sánh còn được gọi tắt là CIA11. Nội dung của công cụ này là khi cần phải lựa chọn cơ quan nào chịu trách nhiệm chính để thực hiện việc quản lý nhà nước đối với một chính sách mới được ban hành thì nhà làm luật cần liệt kê các chủ thể có khả năng thực hiện công việc ấy. Sau đó phân tích điểm mạnh, điểm yếu của từng chủ thể, so sánh với các chủ thể khác để tìm ra phương án tối ưu nhất. Chẳng hạn như trong quá trình thảo luận Luật Quảng cáo mới đây, vấn đề đặt ra là nên giao cho Bộ Thông tin – Truyền thông hay Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch quản lý hoạt động này. Câu trả lời không thể dựa trên cảm tính mà cần xuất phát từ công cụ phân tích thể chế so sánh để đưa ra quyết định. Nhà làm luật cần chỉ ra và so sánh điểm mạnh, điểm yếu của từng thể chế để từ đó đi đến quyết định nên sử dụng thể chế nào.

Nội dung phân tích thể chế so sánh rất đơn giản nhưng không ít trường hợp người làm chính sách bỏ qua công cụ quan trọng này. Khủng hoảng kinh tế ở Mỹ trong mấy năm qua được cho là chính phủ Mỹ đã quá nóng vội trong việc cho phép phá sản một số ngân hàng lớn trong khi quên mất công cụ phân tích thể chế so sánh. Trong việc phá sản ấy, Chính phủ Mỹ (tức là thể chế Chính trị) đã đi quá nhanh so với các thể chế khác bao gồm Tòa án và Thị trường. Khi chưa phân tích vai trò của tòa án và thị trường đối với phá sản ngân hàng và ngược lại, chưa xác định tác động của sự phá sản ấy đối với hai thể chế này là gì thì Chính phủ Mỹ đã can thiệp cho phá sản xảy ra. Kết quả là đã tạo ra phản ứng mang tính dây chuyền của hệ thống ngân hàng và kinh tế Mỹ lâm vào khủng hoảng sâu. Thực tế này cho thấy, công cụ phân tích thể chế so sánh vì quá đơn giản nên thường xuyên bị lãng quên khi làm chính sách. Hệ quả của một chính sách không dựa trên công cụ phân tích khoa học là rất nghiêm trọng.

Tóm lại, hoạt động xây dựng pháp luật cần bắt nguồn từ nhu cầu thực tế, đặc biệt là nhu cầu quản lý xã hội của Chính phủ. Vì vậy, Chính phủ là một chủ thể quan trọng trong hoạt động soạn thảo luật. Để các dự luật nhanh chóng được Quốc hội thông qua, có tính khả thi và tuổi thọ cao thì đòi hỏi người soạn thảo luật cần áp dụng mô hình “từ dưới lên”. Công cụ phân tích các bên có liên quan và phân tích thể chế so sánh nên được sử dụng để đảm bảo cho tính thực tế của các quy định pháp luật. Khi đó mỗi đạo luật được ban hành sẽ trở thành một “cây thật” được trồng mới chứ không phải là “cây giả” được cắm vào giữa khu rừng thật.

Luật LVN Group (tổng hợp & phân tích)