1 Khái niệm của cơ quan tiến hành tố tụng

Theo khoản 1 điều 34 BLTTHS năm 2015 quy định

Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Nhưng đó là cơ quan tiến hành tố tụng cho tất cả các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi vụ án được đưa ra xét xử. Nếu ở giai đoạn điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng gồm có Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, thì ở giai đoạn xét xử (kể cả xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm) cơ quan tiến hành tố tụng chỉ gồm Viện kiểm sát và Toà án. Như vậy ỏ giai đoạn điều tra không có Toà án và ở giai đoạn xẻt xử không có Cơ quan điều tra.

Tuy nhiên thực tiễn đấu tranh chống tội phạm, có một số vụ án do tính chất nghiêm trọng và phức tạp nên ngay từ khi khởi tố điều tra có sự phối hợp giữa ba ngành Công an, Viện kiểm sát và Toà án, nhưng sự phối kết hợp này chỉ mang tính chất hành chính, hoàn toàn không có ý nghĩa về tố tụng, nội dung của việc phối hợp này (như biên bản cuộc họp liên ngành) chỉ là tài liệu có tính chất nội bộ, là bí mật công tác, không phải là những tài liệu tố tụng

2 Cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự

Ở giai đoạn xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có Viện kiểm sát và Toà án, mỗi cơ quan có chức năng nhiệm vụ riêng, nhưng đều nhằm một mục đích là xác định sự thật của vụ án, thực hiện đúng phương châm: xét xử đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng được thông qua người đứng đầu (Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Chánh án Toà án), nhưng cũng có một số trường hợp được thông qua hành vi của người tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên, Thẩm phán). Vì vậy giữa cơ quan tiến hành tố tụng với người tiến hành tố tụng có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng lại không đồng nhất với nhau. Thực tiễn xét xử đã có không ít trường hợp không phân biệt quan tiến hành tố tụng với người tiến hành tố tụng nên dẫn đến vi phạm thủ tục tố tụng.

2.1 Viện kiểm sát

Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ ở giai đoạn điều tra mà còn cả ở giai đoạn xét xử. Viện kiểm sát gồm có Viện kiểm sát nhân dân các cấp và Viện kiểm sát quân sự các cấp. Tuy nhiên ở giai đoạn xét xử sơ thẩm chỉ có Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự khu vực và Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.

Thẩm quyền của Viện kiểm sát ở giai đoạn xét xử sơ thẩm là quyết định việc rút quyết định truy tồ trước khi mở phiên toà, nếu không rút quyết định truy tố thì cử Kiểm sát viên tham gia phiên toà (ngồi ghế công tố), quyết định việc thay đổi Kiểm sát viên tham gia phiên toà. kiểm sát viên được cử tham gia phiên toà sơ thẩm trở thành người tiến hành tố tụng và thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người tiến hành tố tụng.

Theo quy định tại điều 282 BLTTHS quy định

“Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.

Trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả bị can, bị cáo thì có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo. Quyết định đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do đình chỉ và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.”

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì sau khi Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo và chuyển hồ sơ vụ án sang Toà án thì Viện kiểm sát chỉ có quyền rút quyết định truy tố hoặc cử Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Ngoài ra Viện kiểm sát không có quyền “mượn” lại hồ sơ để bổ sung bản cáo trạng hoặc quyết định đình chỉ vụ án. Trường hợp Toà án quyết định trầ hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, nếu kết quả điều tra bổ sung không chứng minh được hành vi phạm tội hoặc có căn cứ quy định tại Điều 132 Bộ luật tổ tụng hình sự hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can thì Viện kiểm sát quyết định đình chỉ vụ án

2.2 Tòa án

Toà án là cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu ở giai đoạn xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng. Theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự và Bộ luật tố tụng hình sự thì Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự bao gồm

– Toà án nhân dân huyện, thị. xã, thành phố trực thuộc tĩnh; Toà án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện).

– Toà án nhân dân tĩnh, thành phố trực thuộc trung ương; Toà án quân sự quần khu và tương đương (sau đây gọi chung là Toà án cấp tĩnh).

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự đối với các Toà án hiện nay đang trong quá trình nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội và trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, cũng như việc nâng cao chất lượng công tác xét xử các vụ án hình sự trong giai đoạn hiện nay

3 Thẩm quyền của tòa án theo việc

– Đối với tòa án cấp huyện

Theo quy định tại khoản 1 điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự thì Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ bảy năm tù trở xuống, trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội quy định tại các các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình sự 2015;.

– Đối với tòa án cấp tỉnh theo quy định tại khoản 2 điều 268 BLTTHS quy định

Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án:

a) Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực;

b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài;

c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.Trong trường hợp bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp tỉnh thì Toà án cấp tỉnh xét xử toàn bộ vụ án.

– Đối với tòa án quân sự

Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể trường hợp phạm tội nào thì thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự mà chỉ quy định có tính chất chỉ dẫn, vi vậy muốn biết thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự phải căn cứ vào các quy định khác của pháp luật mà cụ thể là Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự.

Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự thì Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung .huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý và những người tuy không thuộc các đối tượng trên nhưng hành vi phạm tội của họ có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.

Theo quy định tại Điều 4 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự thì đối với những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ trong quân đội hoặc những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trước khi vào quân đội thì Toà án quân sự xét xử những tội phạm có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội; những tội phạm khác do Toà án nhân dân xét xử.Trong trường hợp bị cáo phạm tội nhiều tội, có tội thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp khu vực, có tội thuộc thẩm quyền của Toà án cấp quân khu, thì Toà án cấp quân khu xét xử toàn bộ vụ án

4 Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ

Theo quy định tại điều 269 BLTTHS năm 2015 quy định

“1 Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.

2. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử.

Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.”

Như vậy Theo quy định này thì việc xác định thẩm quyền trước hết căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện, tức là địa danh hành chính mà người phạm tội thực hiện tội phạm.Tuy nhiên, có một số trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau và lại do cơ quan điều tra phát hiện ở một nơi mà tội phạm không được thực hiện hoặc ở nơi tội phạm kết thúc. Trong trường hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Toà án có thẩm quyền xét xử là Toà án nơi kết thúc điều tra về nguyên tắc, cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh nơi thực hiện tội phạm của bị can bị cáo

5 Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền

Điều 275 BLTTHS năm 2015 quy định về Giải quyết việc tranh chấp về thẩm quyền xét xử

“1. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giữa các Tòa án quân sự khu vực trong cùng một quân khu do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.

2. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Tòa án quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi kết thúc việc điều tra quyết định.

3. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự cấp quân khu do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương quyết định.

4. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.

Việc chuyển vụ án để xét xử theo thẩm quyền được thực hiện theo quy định tại Điều 274 của Bộ luật này.”

Như vậy khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền mình thì Toà án chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho Toà án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính tương đương và ngoài phạm vi quân khu do Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu quyết định. Chỉ được chuyển vụ án cho Toà án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Toà án quyết định. Nêu vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự hoặc Toà án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Toà án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định. Việc chuyển vụ án phải được thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp.

Mọi thắc mắc xin liên hệ với công ty Luật LVN Group chúng tôi : 1900.0191

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group

Luật LVN Group xin cảm ơn !