1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử

1.1 Khái quát

Pháp quyền là một khái niệm được hình thành và phát triển dọc theo chiều dài lịch sử của văn minh nhân loại. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng của thời cổ đại. Các nội dung, nguyên tắc cơ bản của pháp quyền đã không ngừng được giải thích, bổ sung và hoàn thiện theo từng giai đoạn và từng thời kỳ lịch sử. Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp quyền xuất hiện nơi mà nền dân chủ sơ khai đã được hình thành. Trong giai đoạn này, các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ thuần túy quan tâm tới tính thượng tôn của pháp luật mà còn coi pháp quyền như là một phương thức tìm kiếm sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực nhà nước. Tư tưởng và các học thuyết pháp quyền được tiếp tục bổ sung và phát triển khi giai cấp tư sản ở các quốc gia phương Tây không ngừng lớn mạnh, đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và giáo hội, từ đó từng bước giành ảnh hưởng trên chính trường. Trong thời kỳ này, tư tưởng pháp quyền được phát triển và hòa quyện vào các học thuyết về phân quyền, chủ nghĩa lập hiến và dân chủ. Nhiều nhà nghiên cứu lớn đã xuất hiện với vai trò hết sức quan trọng trong việc bồi đắp và phát triển các học thuyết pháp quyền. Từ đó, các nhà tư tưởng trong giai đoạn này tập trung tìm kiếm một cơ chế chế ước quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm quyền và xây dựng một mô hình chính phủ hợp lý nhằm hạn chế việc vi phạm các quyền con người. 

1.2 Các hướng tiếp cận về pháp quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới

Các hướng tiếp cận về pháp quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới là hết sức phong phú, đa dạng. Để có thể hiểu được toàn diện khái niệm pháp quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới, chúng ta cần xem xét các học thuyết pháp quyền trong mối quan hệ biện chứng, liên tục, đan xen, gắn bó và bổ sung cho nhau. Trong khi hệ thống pháp luật Anh-Mỹ nhấn mạnh pháp quyền như một sự cơ chế đảm bảo cho sự vận hành hợp lý và hiệu quả của hệ thống pháp luật nhằm giúp các cá nhân trong xã hội có thể hợp tác và theo đuổi những kế hoạch phát triển của mình thì các học thuyết pháp quyền của Đức nhấn mạnh đến nguyên tắc phân chia, phân công quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước, củng cố cơ chế tiếp cận công lý và đảm bảo quyền con người. Hướng tiếp cận về pháp quyền của Trung Quốc, quốc gia có hệ thống pháp luật XHCN lại thể hiện thái độ thận trọng trên con đường tìm kiếm mô hình nhà nước pháp quyền XHCN. Trong khi đó, các tổ chức quốc tế nhấn mạnh đến tính linh hoạt, tính mở và năng động của khái niệm pháp quyền trên thế giới tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống, tính cách dân tộc của từng quốc gia.
Những đặc trưng này được xem là các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền nói chung đã được đề cập trong nhiều quan điểm, học thuyết của các nhà tư tưởng, các nhà lý luận chính trị – pháp lý trong lịch sử phát triển các tư tưởng chính trị – pháp lý nhân loại. Các giá trị phổ biến này được trình bày dưới các dạng thức khác nhau bởi các nhà lý luận, phục thuộc vào lập trường chính trị – pháp lý và quan điểm học thuật của từng người. Các trình bày có thể khác nhau, song về bản chất có thể quy về các giá trị có tính tổng quát sau: Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước.Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.

1.3 Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh vực HĐ của Nhà nước và XH

Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm.
Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực. Tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội. Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường, theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.
Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã hội). Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.

2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã tích lũy được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được phản ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí,… Kinh nghiệm làm luật, trị nước được ghi lại trong các bộ luật nổi tiếng như Hình thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Trần), bộ luật Hồng Đức (đời Lê),… mà giá trị của nó có thể sánh ngang với các bộ luật nổi tiếng ở phương Đông, trong đó có những tư tưởng còn được đề cập đến sớm hơn cả phương Tây, ví dụ vấn đề bình đẳng đối với phụ nữ: cho phép ly hôn, có quyền thừa kế tài sản, công nhận công lao chung của vợ chồng trong vấn đề tài sản, cho phép nhận con nuôi…
Những yếu tố tích cực của nhà nước thân dân thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc cùng với hình ảnh lý tưởng về nhà nước “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”, “nước lây dân làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo,… là những hành trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mô hình nhà nước tiên bộ cho đất nước sau khi giành được độc lập. Chủ tịch Hổ Chí Minh khởi xướng cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc mình và cho các dân tộc thuộc địa bằng việc vạch trần bản chất vô nhân đạo, phản tiến hóa của cái gọi là “công lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở các xứ “bảo hộ”. Người viết:
Ở Đông Dương có 2 thứ công lý: một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người Việt Nam thì không có hội đồng bổi thẩm, cũng không có Luật sư của LVN Group người Việt. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt người bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người Việt Nam với người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn cướp hay giết người.
Năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp, dưới tên ký Nguyễn Ái Quốc, Người gửi đến Hội nghị Véc xây bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Trong lịch sử chính trị và pháp lý của nước ta, đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với các quyền tự do, dân chủ của nhân dân; tức là kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc và quyền con người. Đây cũng là lần đầu tiên một người Việt Nam yêu nước, nhân một Hội nghị quốc tế, đã dũng cảm đứng lên đoạt lại ngọn cờ về quyển dân tộc và quyền con người trong tay thực dân, đế quốc, biến những chiêu bài bịp bợm của chúng thành những yêu sách chính trị và pháp lý chính đáng, buộc chúng phải thực hiện những quyền dân tộc và dân chủ mà chúng đã rêu rao.
Trên hành trình cứu nước, Người đã khảo sát mô hình nhà nước tư sản Mỹ, Pháp, “những cuộc cách mạng không đến nơi”, vì ở đó, chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người. Người đã phát hiện ra rằng, sau những lời hoa mỹ về “quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của Tuyên ngôn độc lập 1776, là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết bao sự tàn bạo, bất công khác, nhất là đối với người da đen. Người coi đó là: “Một cuộc cách mạng chưa đến nơi, vì cách mạng đã thành công hơn 150 năm nay mà công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mạng lần thứ hai”. Sau khi đến Liên Xô, Người đã tìm hiểu một mô hình Nhà nước Xô viết, nhà nước đó: “Phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đổng”. Mô hình nhà nước đó là một gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.

3. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền

Từ những nghiên cứu, khảo sát trên, Hồ Chí Minh từng bước hình thành và phát triển tư tường của mình về một mô hình nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai. Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, lần đầu tiên Người nêu mục tiêu “dựng ra chính quyền công nông binh”. Ý tưởng này chỉ thấy Người đề cập đến có một lần. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), hoàn chỉnh sự chuyển hướng chi đạo chiến lược và sách lược, đề ra Chương trình Việt Minh, về vấn đề chính quyền, Hội nghị chủ trương: Không nên nói công nông liên hợp và lập chính quyền Xô viết, mà phải nói toàn thế nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng hoà. Chương trình Việt Minh cũng ghi rõ: Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc gia đại hội cử ra.
Khi thời cơ giải phóng dân tộc đã đến gần, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc (10-1944), Hồ Chí Minh cũng nói rõ: trước hết cần có một chính phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân, gồm tất cà các đảng phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cừ ra. “Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”. Như vậy, từ mô hình nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình nhà nước đại biểu cho khối đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng được mở rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng ngoại vi thuộc các tình Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái…Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh chi thị thành lập Khu giải phóng, cử ra ủy ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng. Tại các địa phương trong Khu giải phóng, các ủy ban nhân dân cách mạng cũng được thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng là hình ảnh “nước Việt Nam mới phôi thai”, “các ủy ban nhân dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa, vừa tập cho nhân dân cầm chính quyền”
Tiếp theo, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào đã đi đến quyết định lịch sử: phát động tổng khởi nghĩa, thành lập ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, ra mắt Quốc dân Đại hội, làm chức năng của Chính phủ lâm thời ngay sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, trong gần 1/4 thế kỷ, trên cương vị là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam mới, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công đầu trong việc đặt nền móng xây dựng một nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân tộc: Nhà nước của dân, do dân, vì dân, một nền móng cho nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo: Hồ Chí Minh (1971), Nhà nước và pháp luật, tập 3, NXB Lao động, Hà Nội.