Công ty được kiểm soát thông qua quyền sở hữu một phần hay toàn bộ cổ phiếu có quyền bỏ phiếu của nó bởi công ty khác. Các công ty chí nhánh sở hữu bởi ngân hàng có thể báo cáo trong báo cáo tình hình của ngân hàng với cơ quan điều tiết chính. Một công ty hiện ở mức hoặc hơn 50% số cổ phiếu đang lưu hành được sở hữu gián tiếp hay trực tiếp bởi một ngân hàng, là chi nhánh được sở hữu đa số. Chi nhánh quan trọng của một ngân hàng báo cáo là công ty trong đó ngân hàng mẹ có 5% quyền lợi trong vốn cổ phẩn, hay công ty đóng góp ít nhất 5% thu nhập kinh doanh gộp của ngân hàng mẹ hay 5% lợi nhuận (hay lỗ) trước thuế của nó. Các ngân hàng và các định chế tài chính ký gửi khác báo cáo thu nhập trên cơ sở hợp nhất, bao gồm lợi nhuận của các công ty chi nhánh.

Công ty, sở hữu bởi công ty ngân hàng mẹ, cung ứng các dịch vụ ngoài ngân hàng, như cho thuê thiết bị hay bảo lãnh phát hành chứng khoán, được chấp nhận bởi ủy ban Dự trữ Liên bang theo Mục 4(c)(8) của Đạo luật về Công ty Ngân hàng Mẹ. Một công ty được sở hữu bởi công ty ngân hàng mẹ, thay vì bởi chính ngân hàng, thường được để cập như chi nhánh công ty con của ngân hàng, nhằm tránh bị nhầm lẫn với các chi nhánh do ngân hàng sở hữu. Đạo luật GRAMM- LEACH-BLILEY nàm 1999 cho phép các ngân hàng quốc gia thành lập hay mua lại các công ty chi nhánh (được gọi là các chi nhánh tài chính), có thể tham gia vào một phạm vi rộng các hoạt động tài chính có liên quan đến ngân hàng, ngoại trừ bảo lãnh bảo hiểm, nghiệp vụ ngân hàng thương mại, và đầu tư trực tiếp vào bất động sản.