NỘI DUNG TƯ VẤN:

1. Khái quát chung về các giai đoạn lịch sử thi hành án hình sự Việt Nam:

Nghiên cứu lịch sử thi hành án hình sự ở nước ta từ trước đến nay, một mặt cho chúng ta thấy một bức tranh tổng thể về sự phát triển của hoạt động thi hành án, mặt khác, chỉ rõ những khác biệt trong hoạt động này ở các thời kỳ, giai đoạn phát triển khác nhau, cho phép chúng ta rút ra được những bài học kinh nghiệm và trên cơ sở đó, có những định hướng, những giải pháp, biện pháp cụ thể thích hợp cho hoạt động này hiện tại cũng như tương lai.

Căn cứ vào đặc điểm xã hội cũng như tính chất của hoạt động thi hành án ở Việt Nam, có thể phân “ chia lịch sử thi hành án hình sự Việt Nam thành các giai đoạn: thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc; giai đoạn từ Cách mạng tháng 8/1945 đến nay.

2. Đặc điểm thi hành án hình sự thời kỳ phong kiến:

2.1 Khái quát chung:

Chế độ phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển trong khoảng 10 thế kỷ (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX). Trong khoảng thời gian đó, giai cấp phong kiến luôn tìm kiếm nhiều biện pháp để củng cố nhà nước quân chủ trung ương tập quyền với quyền lực nhà nước tập trung về chính quyền trung ương mà đứng đầu là vị quân vương, về nguyên tắc, chế độ phong kiến không có sự phân chia quyền lực. Toàn bộ hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương đều đóng vai trò giúp việc cho nhà vua. Theo đó, các quan lại hành chính địa phương đồng thời cũng phụ trách luôn tất cả các lĩnh vực công việc nhà nước khác, bao gồm cả hoạt động xét xử và thi hành án. Đồng thời, xuất phát từ quan niệm của nhà lập pháp phong kiến đồng nhất pháp luật với trừng trị, pháp luật là hình phạt nên trong xã hội phong kiến hầu như không có sự phân biệt các lĩnh vực pháp luật cũng như không có sự phân biệt giữa tố tụng hình và tố tụng dân, giữa thi hành án hình sự với thi hành án dân sự.

2.2 Đặc điểm cụ thể:

Nghiên cứu hoạt động thi hành án của nhà nước phong kiến trong suốt lịch sử chế độ phong kiến, có thể chỉ ra một số nét đáng lưu ý sau:

Thứ nhất, hoạt động thi hành án không được coi là một lĩnh vực hoạt động độc lập của nhà nước phong kiến, do vậy, trong bộ máy nhà nước phong kiến chưa có những cơ quan riêng biệt làm nhiệm vụ thi hành án, càng không có một hệ thống Cơ quan thi hành án thông nhất từ trung ương đến địa phương, cũng như một hệ thông quan lại chuyên làm nhiệm vụ thi hành án. Việc thi hành án trên thực tế phụ thuộc rất nhiều vào các quan lại xét xử tại địa phương, vì vậy, hiện tượng tuỳ tiện, thiếu khách quan trong thi hành án là hiện tượng rất phổ biến.

Thứ hai, pháp luật thi hành án chưa đầy đủ, không rõ ràng và thiếu thông nhất. Thời Lê sơ có ban hành một bộ luật khá độc đáo là Bộ luật “Quốc triều khám tụng điều lệ” quy định về thủ tục kiện cáo, xét xủ, thi hành án… nhưng các vấn đề liên quan đến thi hành án lại không được đề cập nhiều. Nhìn chung, các quy định về thi hành án thường tạo ra khả năng áp dụng thiếu thống nhất. Sự thiếu thống nhất thể hiện đặc biệt rõ ỏ tình trạng quy định nhiều hình thức thi hành án cho cùng một hình phạt. Chẳng hạn, án tử hình có thể được thi hành dưới hình thức: chém, chém bêu đầu, chém ngang lưng, róc thịt, bỏ vạc dầu sôi, voi dày, ngựa xé, treo cổ, buộc thắt cổ, buộc uốhg thuốc độc… Pháp luật phong kiến quy định năm loại hình phạt chính (ngũ hình) bao gồm: roi (đánh bằng roi); trượng (đánh bằng trượng); đồ (bắt làm các công việc lao dịch nặng nhọc); lưu (đày đi địa phương khác); tử (giết chết) nhưng không quy định thời hạn chấp hành án đôi với hình phạt đồ và hình phạt lưu, vì vậy, trên thực tế cũng tạo ra sự tuỳ tiện khi thi hành các án loại này. Thông thường thdi gian phải chấp hành án phạt đồ và lưu – là hai loại hình phạt nặng – không dài lắm vì xã hội phong kiến có rất nhiều lý do để nhà vua ban lệnh đại xá, đặc xá (ví dụ: dịp vua lên ngôi, khánh thành cung điện, chùa, tượng, được mùa, dẹp được loạn, thắng ngoại xâm, thậm chí cả khi thiên tai…).

Thứ ba, các hình phạt của nhà nước phong kiến do các quan lại xét xử phần lớn được thi hành ngay. Nhiều trường hợp sau khi tuyên án (chỉ bằng miệng) là bản án được thi hành ngay tức thì. Với việc quy định chế độ ngũ hình và các hình thức thi hành hình phạt rất dã man, tàn khốc nên khi thi hành án thường gây tổn thương trực tiếp đến thể xác và tinh thần cho phạm nhân. Không những thế, nhiều khi quá trình thi hành án còn bị chi phối bởi tư tưởng báo thù, thậm chí luật cũng quy định những hình thức thi hành án phạt mang đậm yếu tố báo thù cá nhân, khiến cho hoạt động thi hành án gây ảnh hưởng xấu đến dư luận chung (ví dụ: như băm xác phạm nhân, đào mả hoặc đánh trên mả người chết…).

Thứ tư, bên cạnh những hạn chế rất khố tránh khỏi trong điều kiện của chế độ phong kiến đã nói ồ trên, hoạt động thi hành án thời kỳ phong kiến cũng có những ưu điềm nhất định.

Trước hết, hình phạt và cách thi hành án hình sự nhà nước phong kiến đã có tính chất giáo dục, phòng ngừa, cải tạo theo phương châm “Dục phạt nhất nhi trừng bách” (cần phạt một để răn đe, giáo dục trăm người); “Dụng hình kỳ vu vô hình” (xây dựng hình để không cần đến hình). Nhằm mục đích đó, nhà nước phong kiến áp dụng chính sách nhân đạo, khoan hồng rộng rãi đối với người thú tội và tội phạm, chẳng hạn, trước khi bị phát giác mà tự thú thì được tha tội (trừ tội thập ác, tội giết người); phạm tội nhẹ, khi xét hỏi thú tội nặng và các tội khác thì được tha tất cả các tội (trừ tội thập ác, tội giết người); biết sắp bị tố giác mà tự thú thì được giảm một bậc; cùng đi trôn mà bắt nhau đem nộp quan thì được tha… Ngoài ra, nhà nước phong kiến còn áp dụng chính sách miễn hoặc giảm trách nhiệm hình sự cho người già, trẻ em tuỳ theo tội danh mà họ mắc phải. Thậm chí, trong một số giai đoạn của chế độ phong kiến, nhà nước còn có chính sách khoan hồng với cả những người có hành vi chống đối triều đình, hoặc thông đồng với nước ngoài làm ảnh hưỗng đến lợi ích của vương triều và đất nước. Tất nhiên, việc thi hành những biện pháp khoan hồng này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nhưng trong chừng mực nhất định thì điều đó cũng góp phần làm giảm tính hà khắc và tuỳ tiện của hoạt động thi hành án.

Từ một phương diện khác, ưu điểm của hoạt động thi hành án thời kỳ phong kiến còn thể hiện ở chỗ nhà nước phong kiến đã chú trọng đến việc áp dụng hình phạt tiền với tư cách vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Mặc dù việc áp dụng hình phạt này nhiều khi tràn lan, không chỉ với các tội phạm vụ lợi mà được mở rộng ra ỏ nhiều tội phạm khác, thậm chí hình phạt tiền còn được mỏ rộng hơn với hình thức chuộc tội bằng tiền và chính những yếu tố này, trên thực tế đã làm mất đi ý nghĩa tiến bộ của hình phạt tiền.

Việc áp dụng các hình thức thi hành án khác nhau cho cùng một hình phạt cũng như các hình thức thi hành án dã man, tàn bạo là một hạn chế của hoạt động thi hành án thời kỳ phong kiến nhưng từ góc độ này cũng có thể nhận ra một số yếu tố tiến bộ. Các triều đại phong kiến, đặc biệt là triều Nguyễn, chủ trương dùng hình phạt nặng là để răn đe, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và tái phạm. Hình thức thi hành án phạt khá đa dạng nhưng được áp dụng đồng nhất cho tất cả’mọi người, kể cả quan lại cao câ’p.

Pháp luật thi hành án thời kỳ phong kiến thường không rõ ràng, thiếu thống nhất nhưng có những giai đoạn lại khá phát triển, đặc biệt là giai đoạn Lê sơ. Các nguồn tài liệu cho biết, vào thời kỳ cầm quyền của vua Lê Thánh Tông (1460-1497), ngoài Bộ luật ((Quốc triều khám tụng điều lệ” đã được nhắc đến ở trên thì nhiều quy định về thi hành án đã được ghi nhận trong Bộ luật Hồng Đức – bộ điển chế vĩ đại nhất của lịch sử pháp luật phong kiến Việt Nam, được ban hành trong niên hiệu Hồng Đức của Lê Thánh Tông. Trong Bộ luật Hồng Đức đã có khá nhiều quy định về chế độ giam giữ, chế độ đốĩ với tù bị thương, bị bệnh, về kiểm soát ngục thất… Đặc biệt, Bộ luật có những quy định về các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp. Các hành vi vi phạm các quy định về thi hành án của Hình quan, Ngục quan, tức những người có trách nhiệm trong thi hành án, đều bị xác định là tội phạm và bị trừng trị rất nghiêm khắc. Bộ luật cũng có nhiều điều quy định cụ thể trách nhiệm của quan lại (trước hết là của Hình quan – quan trông coi việc pháp luật), các hành vi lợi dụng chức quyền của quan lại, các hành vi bao che tội phạm của quan lại hoặc của các vương hầu quý tộc…

3. Đặc điểm thi hành án hình sự thời kỳ Pháp thuộc:

Kế tiếp thời kỳ phong kiến, nước ta rơi vào tình trạng xã hội thuộc địa nửa phong kiến, còn gọi là thời kỳ Pháp thuộc. Với sự du nhập những yếu tố mới trong tổ chức và hoạt động của nhà nước thông qua cách quản lý xã hội của chính quyền thực dân Pháp, hoạt động thi hành án có những thay đổi đáng kể theo hướng được chú trọng hơn cả trong pháp luật về thi hành án nói chung và cả trong thực tiễn công tác thi hành án nói riêng. Thay đổi quan trọng nhất là đã có sự phân tách hoạt động thi hành án thành hai lĩnh vực riêng biệt: thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, đã có những bộ phận chuyên trách thi hành án và chế định thừa phát lại – bộ phận chuyên thi hành án dân sự – đã ra đòi. Tuy nhiên, hoạt động thi hành án vẫn mang những hạn chế cố hữu của một chế độ xã hội được xây dựng trên bất công và đàn áp. Nhiều hình thức thi hành án không có trong luật vẫn được áp dụng tuỳ tiện, nhiều nhà tù với chế độ giam giữ hết sức hà khắc vẫn được thực dân Pháp xây dựng để đàn áp các phong trào yêu nước, các chiến sỹ cách mạng, các nhân sỹ yêu nước.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group