Đầu tư vào hàng tồn kho hay đầu tư lưu động (inventory invesstment) là đầu tư vào nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. Khác với đầu tư cố định, hàng tồn kho liên tục chu chuyển (quay vòng) khi chu kỳ sản xuất lặp đi lặp lại, trong đó nguyên vật liệu được mua, chuyển thành bán thành phẩm, thành phẩm, sau đó được bán đi và nguyên vật liệu tiếp tục được mua.

Mức đầu tư tồn kho của doanh nghiệp phụ thuộc vào dự báo của họ về nhu cầu tương lai và kế hoạch sản xuất tương ứng, cũng như mức hàng tồn kho cần thiết để đảm bảo đủ nguyên vật liệu khi có sự chậm trễ trong cung ứng và có đủ hàng hoá để phục vụ khách hàng khi có sự chậm trễ trong sản xuất, kể cả mức hàng tồn kho đệm để xử lý các trường hợp bất thường. Các công ty thường nhận thấy mức cầu thực hiện khác với kết quả dự báo của mình: nhu cầu thường thấp hơn mức dự kiến và hàng hoá đọng lại (phần đầu tư tồn kho không dự kiến tăng) hoặc nhu cầu vượt quá kỳ vọng và vì vậy hàng tồn kho bị cạn kiệt (phần đầu tư tồn kho không dự kiến giảm). Họ coi đây là tín hiệu thị trường báo cho họ biết là đang sản xuất quá nhiều hoặc quá ít và điều chỉnh hành vi một cách tương ứng.

Chi phí đầu tư vào hàng tồn kho bao gồm cả chi phí đặt hàng, vận chuyển, hư hao hàng tồn kho, lãi suất phải trả cho vốn đầu tư vào hàng tồn kho. Các doanh nghiệp tìm cách tối thiểu hoá những chi phí này bằng cách xác định lượng đặt hàng kinh tế và mức hàng tồn kho tối ưu.