Trả lời:

1. Cấu tạo, hình thái, phân loại đường vân tay

1.1 Cấu tạo vân tay

Lòng bàn tay có nhiều đường nét gấp da nhỏ, chạy song song và nằm gần kề nhau. Đó là các đường vân tay. Các đường vân tay đó thường cao từ 0,1 – 0,4 mm, rộng từ 0,2 – 0,7 mm. Trên các đường vân tay có các lỗ mồ hôi nối tiếp nhau, đường kính của chúng rộng từ 0,08 – 0,25mm. Trên lem đường vân trung bình có từ 9 – 18 lỗ mồ hôi. Mồ hôi trong cơ thể thường xuyên được bài tiết qua các lỗ mồ hôi. Mồ hôi là hợp chất, chủ yếu là nước (99,6%), các chất hữu cơ như Urê, các axít amin (0,2%) và các chất vô cơ như muối Cloruanatri, Cloruakaly. Mỗi ngày, mồ hôi tiết ra qua các lỗ mồ hôi trong lòng bàn tay từ 500 – 600mg. Chất lượng dấu vết đường vân tay phụ thuộc nhiều vào tính chất của mồ hôi.

1.2 Hình thái đường vân đốt đầu các ngón tay

Đường vân đốt đầu các ngón tay được cấu tạo bởi ba loại dòng đường vân sau:

– Dòng trên: Nằm phía trên đốt đầu các ngón tay, có hình cung đơn giản chạy suốt từ cạnh bên này sang cạnh bên kia đốt đầu các ngón tay.

– Dòng giữa: Nằm ở tỉung tâm đốt đầu các ngón tay, có nhiều hình dạng khác nhau. Căn cứ vào dòng đường vân giữa để phân loại đường vân tay.

– Dòng dưới: Gồm những đường vân tương đối thẳng, nằm ngang ngấn đốt.

1.3 Phân loại đường vân đốt đầu các ngón tay.

– Loại vân hình cung.

Đây là loại đường vân tay có dòng đường vân ưên và dòng đường vân giữa cong hình cung. Giữa hai dòng đường vân này không có ranh giới rõ rệt để phân chia. Có loại hình cung đơn giản và loại hình cung thật cong (cung lều, cung cây thông). Loại vân hình cung chiếm tỷ lệ khoảng 5% trong tong so đường vân.

– Loại vân hình quai.

Đường vân hình quai có đầy đủ ba dòng đường vân: Trên, giữa, dưới. Dòng đường vân giữa có hình dạn như cái quai xách, hình cái vợt… Có khoảng 95% đường vân hình quai có chân quai quay về phía ngón út của bàn tay và 5% còn lại thì chân quai quay về phía ngón cái của bàn tay và thường xuất hiện ở ngón ưỏ của hai bàn tay. Loại đường vân này chiếm khoảng 60% trong tong số đường vân.

– Loại đường vân hình xoáy.

Đường vân hình xoáy cũng có đầy đủ ba dòng đường vân: Trên, giữa, dưới. Dòng đường vân giữa có nhiều hình dạng phức tạp như xoáy ốc, xoáy tròn, xoáy bầu dục, đường vân hình chữ s… Loại đường vân này chiếm khoảng 35% tổng số đường vân.

2. Tính chất đặc trưng của đường vân tay

– Tính riêng biệt.

Khoa học đã chứng minh: Đường vân tay của con người không ai giống ai, kể cả trường hợp sinh ra cùng trứng. Ngay ở một người, đường vân ở từng phần khác nhau trong lòng bàn tay nói chung và ở từng đốt ngón tay nói riêng cũng hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, có thể coi vân tay của một người chính là “địa chỉ” của người đó.

– Tính ổn định về hình thức.

Đường vẫn tay được hình thành trong bào thai khi thai nhi được ba tháng và hoàn chỉnh khi thai nhi được sáu tháng. Gen quy định đặc tính riêng của đường vân tay và trong toàn bộ cuộc đời của một người gen không bị thay đổi cho nên vân tay của người đó cũng ổn định, không bị thay đổi về hình thức. Cùng vói sự phát triển của cơ thể, kích thước của đường vân tay sẽ bị thay đổi cho phù hợp nhưng các yếu tố khác quyết định hình thức của vân tay (những đặc điểm được sử dụng trong điều tra hình sự) như số lượng đường vân, chiều hướng, hình dạng, vị trí giữa chúng không hề thay đổi.

– Tính phục hồi cao.

Da lòng bàn tay người gồm hai lớp: Lớp da ngoài là mô biểu bì, không có mạch máu, không lấy thức ăn, thoái hoá dần rồi chết và tự bong ra, lớp tế bào bên frong lại thay thế. Lớp da trong là lóp bì, có mạch máu, có lưới thần kinh, có các tuyến mồ hôi và dưới cùng là các mô mỡ nằm trên các cơ.

Khi lớp da ngoài bị tổn thương thì một thời gian sau lớp da trong sẽ ra thay thế lớp da ngoài cả về nội dung lẫn hình thức như số lượng, chiều hướng, hình dạng, vị trí, kích thước và môi tương quan giữa các đường vân.

Ba tính chất đặc trưng nêu trên của đường vân tay làm nên giá trị truy nguyên đặc biệt của loại dấu vết này.

3. Phương pháp phát hiện và làm hiện rõ dấu vết tay

Dấu vết tay để lại trên vật mang vết có thể ở dưới dạng in hoặc lõm. Dấu vết tay in được hình thành khi tay dính các tạp chất khác nhau như dầu, mỡ, máu… hoặc do mồ hôi để lại hay khi tác động lên những vật mang vết có phủ một lớp bụi mỏng. Dấu tay lõm được hình thành khi tay tác động lên những vật mang vết kém bền vững như xà phòng, sáp, nến, bơ, mỡ, nhựa đường nóng … Việc phát hiện dấu vết tay phải tuân theo nguyên tắc phát hiện dấu vết hình sự nói chung. Nghĩa là, có thể dùng các phương pháp quan sát và phán đoán để phát hiện chúng.

Khi quan sát để phát hiện dấu vết có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên hoặc nhân tạo (đèn chiếu xiên, đèn pin) soi theo nhiều góc độ khác nhau ở những nơi nghi để lại dấu vết và quan sát để phát hiện dấu vết. Khi quan sát phải điều chỉnh góc nhìn cho hợp lý và nhìn ngược nguồn ánh sáng. Có thể sử dụng kính lúp có độ phóng đại từ 2 – 3 lần để phát hiện dấu vết. Khi cần phát hiện dấu vết ở những nơi kín, khuất, khó quan sát trực tiếp thì phải sử dụng gương soi làm gương phản chiếu để quan sát.

Khi áp dụng phương pháp suy đoán để phát hiện dấu vết tay cần chú ý nắm vững tính chất và quá trình diễn biến của vụ việc xảy ra, hành vi của thủ phạm trên hiện trường, quy luật hình thành dấu vết nói chung và nhất là quy luật cầm, nắm, tỳ, ấn… đối với từng đồ vật cụ thể để nhận định những đồ vật nào trong số các đồ vật có ở hiện trường có thể có dấu vết tay của thủ phạm, vị trí của dấu vết trên Các đồ vật đó … Để nâng cao hiệu quả của việc phát hiện dấu vết tay để lại trên các đồ vật không nhẵn bóng như giấy, vải, gỗ… có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ như đèn cực tím, đèn hồng ngoại, tia lade …

Đối với dấu vết tay ở dưới dạng in, hình thành do mồ hôi để lại thường không có màu sắc nên khó nhìn thấy bằng mắt thường khi chúng ở trên các vật có bề mặt nhẵn bóng và không thể nhìn thấy khi chúng ở trên các vật mang vết không có đặc tính này như giấy, vải, gỗ, tường vôi…

Vì vậy, để làm hiện rõ dấu vết trong những trường hợp đó cần áp dụng một trong hai phương pháp sau:

3.1 Phương pháp lý học

Dựa vào khả năng bám dính của mồ hôi với một số loại bột, có thể sử dụng một số loại bột sau để phát hiện dấu vết vân tay do mồ hôi để lại: Bột ôxít nhôm (Al203); bột ôxít đồng một (CuO); bột ôxít kẽm (ZnO); bột ôxít chì (PbO); bột ôxít sắt (Fe205); bột grapít (chì); bột sắt; bồ hóng; bột đồng nhũ; các loại bột phẩm màu; I ốt tinh thể (I2).

Các loại bột được sử dụng phải khô, mịn và có màu sắc tương phản với màu sắc của vật mang vết. Đối với vết tay để lại dưới một ngày thì có thể sử dụng bất kỳ loại bột nào. Với vết tay để lại trên một ngày, nên sử dụng các loại bột kim loại có trọng lượng lớn như ôxít chì, ôxít đồng… hoặc các loại bột nhẹ như ôxít nhôm, muội khói, bồ hóng.

Việc sử dụng các loại bột này để phát hiện dấu vết vân tay phải căn cứ vào đặc điểm của vật mang vết và vị trí của dấu vết trên vật mang vết. Cụ thể:

– Nếu cần phát hiện dấu vết tay trên giấy thì đổ bột lên mặt giấy, nâng giấy lên và lắc đi lắc lại nhiều lần, khi vết hiện rõ đổ bột thừa ra, búng phía sau mặt giấy cho sạch bột dư thừa. Không được dùng chổi để quét bột trong trường hợp này.

– Đối với vật mang vết có bề mặt phẳng nằm ngang thì dùng chổi lông chấm bột, gõ nhẹ cho bột rơi xuống nơi nghi có dấu vết rồi dùng chổi lông quét nhẹ bột theo một chiều.

– Khi vật mang vết có bề mặt phẳng thẳng đứng, dùng bình phun bột vào nơi nghi có dấu vết sau đó dùng chổi lông quét nhẹ theo một chiều hoặc dùng chổi lông chấm bột quét nhẹ trực tiếp vào nơi nghi có dấu vết.

– Trong trường họp vật mang vết là kim loại mạ kền, sắt tráng men, sứ, kính… thì có thể sử dụng muội khói của nhựa tổng họp PVC, nhựa thông, chất xốp bảo vệ máy, cao su… để phát hiện dấu vết tay bằng cách đốt cháy những vật đó cho muội khói bay lên. Sau đó, hứng bề mặt có dấu vết lên đầu ngọn khói. Khi nào khói bám đen, đầy lên dấu vết, dùng chổi lông quét nhẹ một chiều, dấu vết sẽ hiện lên.

– Khi sử dụng bột ôxít sắt (Fe205) để phát hiện dấu vết tay, phải dùng chổi nam châm. Dùng khi dấu vết để lại trên các vật mang vết bằng gỗ, nhựa…

Phương pháp xông hơi I-ốt được sử dụng để làm hiện rõ các dấu vết vân tay in không màu để lại trên các vật mang vết có đặc tính xốp như giấy, vải, gỗ… Do I-ốt có đặc tính thăng hoa (bay hơi ở thể rắn) ở nhiệt độ bình thường và khi ờ nhiệt độ cao (từ 30°C trở lên) thì khả năng thăng hoa của I ốt càng mạnh. Dựa vào tính chất này của I ốt, có thể sử dụng nó để làm hiện rõ dấu vết tay. Dấu vết tay được phát hiện bằng phương pháp này có màu nâu. Do đặc tính I ốt dễ thăng hoa, vì vậy khi dấu vết hiện rõ phải chụp ảnh ngay. Muốn bảo vệ dấu vết được lâu cần quét lên dấu vết một lớp hồ tinh bột. Chú ý: I ốt là một chất có tính chất ôxy hoá mạnh, có thể làm cháy chính bản thân vật mang vết, phá hủy dấu vết, vì vậy không được để vật mang vết tiếp xúc trực tiếp với lốt tinh thể.

3.2 Phương pháp hóa học

Đối với những dấu vết để lại trên các vật mang vết có bề mặt xù xì hoặc tồn tại đã lâu ngày và xét thấy việc sử dụng phương pháp lý học sẽ không có hiệu quả thì khi ấy phải sử dụng phương pháp hoá học để làm hiện rõ dấu vết. Thông thường, một số hoá chất sau đây được sử dụng để làm rõ dấu vết tay:

– Dung dịch AgN03.

AgN03 pha với nước cất nồng độ 0,5 – 2% (độc). Nhúng trực tiếp vật mang vết vào dung dịch hoặc dùng que thủy tinh có quấn bông tẩm dung dịch và quét lên chỗ nghi có dấu vết. Sấy khô vật nghi có dấu vết dưới bóng đèn pha, bếp điện, đèn tử ngoại… Sau 1-2 giây dấu vết sẽ hiện lên. Dấu vết có màu nâu sẫm. Phản ứng xẩy ra là do AgN03 có tác dụng với NaCl có trong mồ hôi.

Dung dịch AgN03 thường được sử dụng để làm hiện rõ các dấu vết để lại trên vật mang vết từ 1 đến 14 ngày.

– Dung dịch Ninhydrin.

Phương pháp tiến hành làm rõ dấu vết tương tự như đối với dung dịch AgNO3. Ninhydrin tác dụng với axít amin có trong mồ hôi, phản ứng kéo dài khoảng 24 tiếng, dấu vết hiện lên có màu hồng. Nếu sấy nóng, phản ứng sẽ xảy ra nhanh hơn. Khi đó, dấu vết chuyển thành màu hồng đỏ. Dung dịch Ninhydrin có thể làm hiện rõ dấu vết để lại từ 14 ngày tới nhiều tháng.

– Dung dịch Alôxan.

Việc sử dụng dung dịch này được tiến hành như đối với hai dung dịch ưên. Sau 10-12 giờ, dấu vết sẽ hiện lên.

– Dung dịch Benzidin.

Benzidin được dùng để làm hiện rõ dấu vết tay có dính máu. Có thể nhúng lớp thuốc gelatin trên tấm mêka của giấy pôly vào dung dịch sau đó phơi khô nơi thoáng gió rồi dán lên vị trí có dấu vết. Có thể phun, quét hoặc nhúng vật mang vết tay vào dung dịch. Dấu vết khi hiện lên sẽ có màu xanh đậm.

4. Phương pháp thu lượm dấu vết vân tay

Phải bảo đàm nguyên tắc chung của việc thu lượm dấu vết hình sự. Cụ thể:

– Trong trường hợp có thể, thu lượm dấu vết tay cùng với vật mang vết hoặc một phần của vật mang vết;

– Đối với dấu vết vân tay in thì dùng giấy pôly, băng dính, giấy ảnh, phim nhựa để sao in dấu vết;

– Đối với dấu vết tay lõm thì thu lượm bằng cách đúc khuôn dấu vết bằng cao su, silicon, xi cứng, thạch cao.

Trường hợp cần thu dấu tay của người chết phải có phương pháp thu riêng.

5. Phương pháp ghi nhận dấu vết vân tay

– Chụp ảnh dấu vết.

về nguyên tắc, khi đã làm hiện rõ dấu vết thì trước hết phải chụp ảnh, sau đó mới dùng các phương pháp phù hợp để thu lượm. Mỗi dấu vết cần chụp ít nhất hai kiểu ảnh: Một ảnh chụp dấu vết và vật mang vết; một ảnh chụp đặc tả dấu vết. Việc chụp ảnh dấu vết vân tay phải tiến hành theo nguyên tắc chụp ảnh dấu vết, vật chứng nói chung.

– Mô tả dấu vết.

Dấu vết vân tay phát hiện được ương quá trình khám nghiệm hiện trường phải được mô tả vào biên bản của hoạt động này. Trong biên bản, phải mô tả rõ vị trí, chiều hướng của dấu vết, loại hình đường vân, loại vật mang vết. Nếu có nhiều dấu vết trên cùng một vật mang vết thì phải mô tả mối tương quan giữa chúng ttên vật mang vết.

– Vẽ dấu vết.

Dấu vết vân tay có thể được đánh dấu hoặc vẽ phác họa vào sơ đồ hiện trường.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập từ các nguồn internet)