1. Địa bạ là gì

Địa bạ là sổ sách hành chính ghi chép về ruộng đất; Địa – đất, Bạ – sổ sách, địa bạ tương đương địa bộ, điền bộ. Địa bạ ghi chép và xác nhận các loại hình sở hữu ruộng đất của làng xã. Bắt đầu lập từ thời Lý cho đến thời Nguyễn đã tiến hành đạc điển (đo đạc ruộng đất) và lập địa bạ.Mỗi địa bạ sao làm 3 bản: bản giáp lưu giữ ở triều đình Huế (hiện còn hơn 10.000 bản lưu giữ tại Cục lưu trữ nhà nước), bản ất lưu giữ ở tỉnh và bản bính lưu giữ ở xã. Diện tích các loại ruộng đất, liệt kê từng thửa với diện tích, địa giới và họ tên chủ sở hữu, thủ tục xác nhận của các cấp chính quyền. Thời Pháp thuộc, địa bạ được thể hiện trong bản đồ chính Xác và khoa học hơn. Địa bạ là cơ sở pháp lí về quyần sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất của cộng đồng làng xã, cá nhân và của tập thể họ hàng, phe giáp.

2.Sơ lược về Địa bạ triều Nguyễn?

Địa bạ là quyển sổ ghi chép tổng số điền thổ của từng xã, thôn, phường, sở, trại, ấp, động, giáp, áng. Kê khai số ruộng vụ hè, vụ thu, thực canh, hoang phế, đền chùa và đất ao vườn, bãi tha ma đường sá, khe ngòi của địa phương và được các địa phương kê khai lập thành sổ, nộp cho nhà nước.

Địa bạ triều Nguyễn (1802-1945) là khối tài liệu có giá trị và chiếm số lượng lớn nhất trong toàn bộ khối tài liệu Hán – Nôm hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, với số lượng 17.058 đơn vị, tổng số 293.639 tờ. Có thể khẳng định, khối tài liệu này là sưu tập tài liệu gốc lớn và đầy đủ nhất về địa bạ cổ Việt Nam, bởi sau khi thống nhất hoàn toàn lãnh thổ, lần đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Vua Gia Long cho lập sổ thống kê ruộng đất trên toàn quốc.

Tài liệu địa bạ đã khẳng định những giá trị to lớn của mình trong việc nghiên cứu lịch sử. Điều đó được thể hiện rõ trong các bộ chính sử của nhà Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Đại Nam hội điển sự lệ,… đã sử dụng khá nhiều thông tin của tài liệu địa bạ. Trong thực tế hiện nay, tài liệu địa bạ đã được sử dụng làm tư liệu cho công trình nghiên cứu khoa học, luận văn tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân,… không thể không kể đến những công trình “Hệ thống tư liệu Địa bạ Việt Nam” do Giáo sư Phan Huy Lê chủ biên đã xuất bản từ năm 1995, gồm 3 tập là Địa bạ Hà Đông, Địa bạ Thái Bình và Địa bạ cổ Hà Nội đều khai thác từ tài liệu Địa bạ gốc bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. “Nghiên cứu Địa bạ triều Nguyễn – Bình Định” của Nguyễn Đình Đầu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996. Tiến sĩ Phan Phương Thảo – Giảng viên Khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nghiên cứu và giới thiệu cuốn “Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư liệu Địa bạ” cũng khai thác từ nguồn tài liệu này.

Các thông tin trong tài liệu địa bạ thường xuyên được khai thác và sử dụng để phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, để có kế hoạch hoặc đề án quy hoạch phù hợp và khả thi, các nhà quản lý không thể không khai thác các thông tin có trong tài liệu địa bạ như: Số liệu thống kê về tình hình đất đai, tình hình khai hoang mở rộng sản xuất nông nghiệp, chế độ sử dụng ruộng đất, chế độ sở hữu ruộng đất giữa các giai tầng xã hội và các dòng họ, chế độ trưng thu thuế khoá ruộng đất,… từ những giá trị trên giúp các nhà quản lý khai thác và sử dụng những thông tin quá khứ để có những quyết định hợp lý.

Bảng thống kê Tài liệu Địa bạ hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I

Số TT

Tên tỉnh

Kí hiệu tra tìm ( từ số …. đến số…)

1.

Cao Bằng

1 – 397

2.

Hà Nội

398 – 402

3.

Hải Dương

403 – 1.821

4.

Hưng Hoá

1.822 – 2.065

5.

Kinh Bắc

2.066 – 3.282

6.

Kiến An

3.283

7.

Lạng Sơn

3.284 – 3.663

8.

Ninh Bình

3.664 – 3.977

9.

Quảng Yên

3.978 – 4.161

10.

Sơn Nam thượng

4.162 – 5.544

11.

Sơn Nam hạ

5.545 – 6.810

12.

Sơn Tây

6.811 – 7.931

13.

Tuyên Quang

7.932 – 8.192

14.

Thái Bình

8.193 – 8.194

15.

Thái Nguyên

8.195 – 8.698

16.

Bình Định

8.699 – 9.920

17.

Bình Thuận

9.921 – 10.223

18.

Hà Tĩnh

10.224 – 10.492

19.

Khánh Hoà

10.492 (A) – 10.767

20.

Kon – Tum

10.768

21.

Nghệ An

10.769 – 11.178

22.

Phú Yên

11.179 – 11.346

23.

Quảng Bình

11.347 – 11.683

24.

Quảng Nam

11.684 – 12.631

25.

Quảng Ngãi

12.632 – 12.863

26.

Quảng Trị

12.864 – 13.229

27.

Thanh Hóa

13.230 – 14.849

28.

Thừa Thiên

14.850 – 15.208

29.

An Giang

15.209 – 15.354

30.

Biên Hoà

15.355 – 15.719

31.

Định Tường

15.720 – 15.943

32.

Gia Định

15.944 – 16.490

33.

Hà Tiên

16.491 – 16.569

34.

Vĩnh Long

16.570 – 16.931

35.

Nam Định

16.932 – 17.042

Tài liệu địa bạ đã khẳng định những giá trị to lớn của mình trong việc nghiên cứu lịch sử. Điều đó được thể hiện rõ trong các bộ chính sử của nhà Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Đại Nam hội điển sự lệ,… đã sử dụng khá nhiều thông tin của tài liệu địa bạ. Trong thực tế hiện nay, tài liệu địa bạ đã được sử dụng làm tư liệu cho công trình nghiên cứu khoa học, luận văn tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân,… không thể không kể đến những công trình “Hệ thống tư liệu Địa bạ Việt Nam” do Giáo sư Phan Huy Lê chủ biên đã xuất bản từ năm 1995, gồm 3 tập là Địa bạ Hà Đông, Địa bạ Thái Bình và Địa bạ cổ Hà Nội đều khai thác từ tài liệu Địa bạ gốc bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. “Nghiên cứu Địa bạ triều Nguyễn – Bình Định” của Nguyễn Đình Đầu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996. Tiến sĩ Phan Phương Thảo – Giảng viên Khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nghiên cứu và giới thiệu cuốn “Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư liệu Địa bạ” cũng khai thác từ nguồn tài liệu này.

Các thông tin trong tài liệu địa bạ thường xuyên được khai thác và sử dụng để phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, để có kế hoạch hoặc đề án quy hoạch phù hợp và khả thi, các nhà quản lý không thể không khai thác các thông tin có trong tài liệu địa bạ như: Số liệu thống kê về tình hình đất đai, tình hình khai hoang mở rộng sản xuất nông nghiệp, chế độ sử dụng ruộng đất, chế độ sở hữu ruộng đất giữa các giai tầng xã hội và các dòng họ, chế độ trưng thu thuế khoá ruộng đất,… từ những giá trị trên giúp các nhà quản lý khai thác và sử dụng những thông tin quá khứ để có những quyết định hợp lý.

Theo thống kê của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, hiện nay tần số khai thác sử dụng tài liệu địa bạ ngày càng nhiều, ngoài đối tượng khai thác tài liệu địa bạ là các nhà nghiên cứu, các nhà sử học, sinh viên khoa Lịch sử và khoa Văn học ngành Hán – Nôm, thì một số đối tượng khác cũng rất quan tâm đến tài liệu địa bạ. Đó là một số cá nhân muốn tìm hiểu các thông tin về đất đai và dòng họ phản ánh trong khối tài liệu này. Như vậy, tài liệu địa bạ đã đáp ứng được nhu cầu chính đáng của nhân dân.

3.Địa danh làng xã Việt Nam của 13 tỉnh Bắc kỳ dưới triều Nguyễn qua tài liệu địa bạ triều Nguyễn?

Địa bạ là loại sổ ghi chép, thống kê về ruộng đất của các làng, xã trên cơ sở sự đo đạc và xác nhận của chính quyền. Mục đích lập Địa bạ là để quản lý ruộng đất, thu tô thuế, vạch định ranh giới giữa các đơn vị hành chính và tránh sự tranh chấp ruộng đất. Dưới triều Nguyễn, khi mới lên ngôi vua Gia Long năm 1805 đã xuống chiếu bắt đầu lập địa bạ các tỉnh từ Nghệ An, Thanh Hoá đến các trấn ở Bắc thành. Năm Gia Long thứ 9 (1810) bắt đầu cho lập Địa bạ từ Quảng Bình trở vào Nam. Vua Gia Long cũng quy định mỗi địa bạ được làm thành 3 bản giáp, ất, bính; làm xong gửi nộp lên Bộ Hộ đóng dấu. Bản giáp để lưu chiểu ở Bộ Hộ, bản ất lưu chiểu ở thành trấn, bản bính cấp cho các xã giữ làm bằng. Địa bạ được lập một cách có hệ thống và theo mẫu thống nhất trong phạm vi cả nước. Mỗi địa bạ là một đơn vị hành chính độc lập thường là xã cũng có khi là thôn, giáp, phường hay trại…

Sưu tập địa bạ hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I là sưu tập trước đây được bảo quản tại Tàng thư lâu Huế. Đây là các bản chính, chủ yếu là bản Giáp tức là bản được lưu trữ tại triều đình do Bộ Hộ quản lý. Toàn bộ sưu tập này là địa bạ của triều Nguyễn có niên đại lập sớm nhất là năm Gia Long thứ 4 (1805) và niên đại lập muộn nhất là Bảo Đại 20 (1945).

Toàn bộ số này là địa bạ của 31 tỉnh dưới triều Nguyễn gồm Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Kinh Bắc, Quảng Yên, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên.

4. Quy định về địa bạ thời vua Gia Long hoàng đế (1802 – 1819)

Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định năm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng vương mà chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) lấy lại được toàn bộ đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Vương Phúc ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long năm thứ nhất. Lê Quang Định được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt, Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Thế là năm Giáp Tý (1804) án sát Quảng Tây Tề Bồ Sâm được vua Thanh phái sang phong vương cho Gia Long và nước ta có tên là Việt Nam. Năm Bính Dần (1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở điện Thái Hòa và từ đây qui định hàng tháng cứ ngày rằm và mồng một thì thiết đại triều, các ngày 5, 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.

Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn, Gia Long phải quyết định rất nhiều việc đặt nền móng cho vương triều có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Để tránh lộng quyền, ngay từ đầu nhà vua bãi bỏ chức vụ Tể tướng. ở triều đình chỉ đặt ra 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các Thượng thư đứng đầu và Tả hữu tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc. ở trong cung cũng vậy, nhà vua không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng phi và các cung tần.

Quản lý một đất nước thống nhất kéo dài từ Lạng Sơn đến Hà Tiên đối với Gia Long lúc đó là hoàn toàn mới mẻ. Gia Long cho tổ chức lại các đơn vị hành chính từ trung ương xuống. Cả nước chia làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận; đất kinh kỳ đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh và Quảng Nam doanh. Cai quản Bắc thành và Gia Định thành có Tổng trấn và Phó tổng trấn. Mỗi trấn có Lưu trấn hay Trấn thư, cai bạ và ký lục. Trấn chia ra phủ, huyện, châu có tri phủ, tri huyện, tri châu đứng đầu. Đây là lần đầu trên một lãnh thổ thống nhất, các tổ chức hành chính được sắp đặt chính quy như vậy.

Quản lý đinh khẩu, ruộng đất và thế khóa áp dụng theo mẫu hình thời Lê sơ nhưng được thực hiện trên quy mô lớn hơn, có quy củ hơn. Đáng chú ý là việc làm sổ ruộng (địa bạ) dưới thời Gia Long được tiến hành nhất loạt, có quy mô toàn quốc. Các làng xã phải lập sổ địa bạ ghi rõ từng loại ruộng đất, diện tích, vị trí, công, tư… chép thành 3 bản nộp lên bộ Hộ. Bộ đóng dấu kiềm, lưu 1 quyển, tỉnh giữ 1, xã giữ 1. Năm năm làm lại địa bạ một lần. Đến nay còn lưu giữ khá đủ toàn bộ địa ba Gia Long của các trấn, doanh cả nước. Trên cơ sở điều tra kê cứu địa chí các địa phương. Cả nước gồm 4 địa hình sông núi, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản… năm Bính Dần (1806), vua Gia Long sai biên soạn và ban hành bộ “Nhất thống địa dư chí” gồm 10 quyển.