NỘI DUNG TƯ VẤN:

1. Cơ sở pháp lý:

Luật thi hành án hình sự số 41/2019/QH14 ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2019;

Nghị định số 133/2020/NĐ-CP ban hành ngày 09 tháng 11 năm 2020 hướng dẫn Luật Thi hành án hình sự;

2. Địa vị pháp lý của người bị kết án có hình phạt bổ sung:

2.1 Quyền và nghĩa vụ của người bị kết án có hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú:

Cấm cư trú và quản chế là hai hình phạt bổ sung được áp dụng với người bị kết án phạt tù và được thi hành sau khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt tù. Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định. Quản chế buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn, sinh sông và cải tạo ỏ một địa phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Thời hạn quản chế và cấm cư trú là từ 01 năm đến 05 năm. Quyền và nghĩa vụ của người bị cấm cư trú và người bị quản chế được quy định tại Nghị định số 53/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hưóng dẫn thi hành các hình phạt cấm cư trú và quản chế.

Theo quy định của Nghị định nói trên, người bị cấm cư trú có nghĩa vụ: không được cư trú ở những nơi đã bị cấm theo quyết định của Toà án, mà phải cư trú ỏ nơi khác; trình diện uỷ ban nhân dân cấp xã nơi được đến cư trú, xuất trình giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù, bản nhận xét về kết quả chấp hành án phạt tù của trại giam; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của chính quyền địa phương nơi đến cư trú; người bị cấm cư trú mà cố ý không chấp hành các quy định về cấm cư trú mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án theo Điều 304 BLHS.

Người bị cấm cư trú có quyền: khi có lý do chính đáng, có thể được phép đến địa phương đã bị cấm cư trú nơi có thân nhân, gia đình đang sinh sốhg hoặc quê quán nếu được sự đồng ý của uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đó; thời gian lưu trú do uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đến quyết định,.nhưng mỗi lần không được quá năm ngày; được tự do lựa chọn nơi cư trú ngoài những nơi đã bị cấm theo quy định của pháp luật; không bị hạn chế việc đi lại, hành nghề hoặc làm công việc nếu không có bản án hoặc quyết định khác của Toà án cấm hành nghề hoặc làm công việc đó và không thuộc những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/07/ 2016 của Chính phủ; khi thấy đủ điều kiện theo quy định tại Chương II của Nghị định này, đề nghị uỷ ban nhân dân cấp xã nơi mình đang cư trú làm thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú còn lại theo quy định của pháp luật; người bị cấm cư trú có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được xét giảm hoặc miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú còn lại: đã chấp hành được ít nhất 1/2 thời hạn cấm cư trú; tích cực lao động, học tập, nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của chính quyền địa phương; được Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đang cư trú đề nghị; việc miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú còn lại chỉ được thực hiện sau khi có quyết định của

Toà án nhân dân cấp huyện nơi người đó đến cư trú; khi trở về địa phương mà trước đó đã bị cấm cư trú, người được miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú còn lại phải xuất trình với Uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định của Toà án cho miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; người đã chấp hành xong hình phạt cấm cư trú kể cả các trường hợp đã được miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú còn lại có quyền tự do lựa chọn nơi cư trú theo quy định của pháp luật.

Người bị quản chế có nghĩa vụ: trở về địa phương mà bản án chỉ định là nơi quản chế ngay sau khi chấp hành xong hình phạt tù và trình diện với Uỷ ban nhân dân cấp xã, xuất trình giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù; chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương; không được tự ý rời khỏi nơi quản chế; mỗi tháng một lần vào tuần đầu của tháng, trình diện và báo cáo với uỷ ban nhân dân cấp xã nơi quản chế việc chấp hành quy định về quản chế; khi Uỷ ban nhân dân các cấp yêu cầu phải có mặt tại địa điểm quy định và trả lời các vấn đề có liên quan, nếu vắng mặt phải có lý do chính đáng; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của chính quyền địa phương; tích cực lao động, học tập, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội; người bị quản chế vi phạm quy định về quản chế thì có thể bị xử lý như sau: trường hợp sau khi chấp hành xong hình phạt tù không đến trình diện với uỷ ban nhân dân cấp xã đúng thời hạn mà không có lý do chính đáng, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã triệu tập đến để lập biên bản và buộc chấp hành các quy định về quản chế; trường hợp cố ý không chấp hành quy định về quản chế mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chê cần thiết thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án theo Điều 304 BLHS.

Người bị quản chế có quyền: sinh sống cùng gia đình tại địa phương nơi quản chế; lựa chọn nghề nghiệp, công việc lao động thích hợp, trừ những nghề hoặc công việc nhất định đã bị cấm theo quyết định của Toà án và những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/07/ 2016 của Chính phủ; được hưởng mọi thành quả lao động do mình làm ra theo quy định của pháp luật; tự do đi lại trong phạm vi xã, phường, thị trấn nơi quản chế; được xét miễn chấp hành thời hạn quản chế còn lại theo quy định tại Điều 14 của Nghị định này.

Nếu có lý do chính đáng, được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thi hành hình phạt quản chế đồng ý và có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều này, người bị quản chế được rời khỏi phạm vi xã, phường, thị trấn nơi quản chế trong thời hạn nhất định để giải quyết việc cá nhân. Thời hạn người bị quản chế được phép rời khỏi phạm vi địa phương nơi quản chế do người có thẩm quyền cấp giấy phép quyết định, nhưng mỗi lần không được quá 5 ngày. Giấy phép được cấp theo quy định tại khoản 3 Điều này có giá trị một lần. Trường hợp người bị quản chế hàng ngày phải đến một nơi nhất định ngoài phạm vi xã, phường, thị trấn để học tập, lao động, chữa bệnh hoặc vì lý do chính đáng khác thì có thể được xem xét cấp giấy phép theo từng tháng. Khi rời khỏi nơi quản chế, người bị quản chế có trách nhiệm: thực hiện đúng các quy định ghi trong giấy phép; trình diện với uỷ ban nhân dân cấp xã nơi mình đến và xuất trình giấy phép làm thủ tục đăng ký tạm trú theo quy định; trở về địa phương nơi quản chế đúng thời hạn ghi trong giấy phép và trình diện với Uỷ ban nhân dân cấp xã; người bị quản chế rời khỏi phạm vi xã, phường, thị trấn nơi quản chế mà không có giấy phép hoặc vi phạm các quy định ghi trong giấy phép nếu không có lý do chính đáng thì bị xử lý theo quy định của pháp luật và thời gian này không được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt quản chế. Người bị quản chế có đủ các điều kiện dưới đây thì có thể được xét miễn chấp hành thời hạn quản chế còn lại: đã chấp hành được ít nhất 1/2 thời hạn quản chế; thành khẩn hốì lỗi, tích cực lao động, học tập, nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của chính quyền địa phương và quy định về quản chế, được Chủ tịch Ưỷ ban nhân dân cấp xã nơi quản chế đề nghị; việc miễn chấp hành thời hạn quản chế còn lại chỉ được thực hiện sau khi có quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện nơi chấp hành án; người đã được miễn chấp hành thời hạn quản chế còn lại phải xuất trình với uỷ ban nhân dân cấp xã nơi mình cư trú quyết định của Toà án về việc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

2.2 Quyền và nghĩa vụ của người bị kết án có hình phạt bổ sung là bị tịch thu tài sản:

Tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung được áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong các trường hợp do BLHS quy định. Người bị kết án có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc, sở hữu của mình để sung quỹ nhà nước. Việc tịch thu tài sản được tiến hành ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật không phụ thuộc vào việc người bị kết án bị áp dụng hình phạt chính là tù có thời hạn, tù chung thân hay tử hình.

2.3 Quyền và nghĩa vụ của người bị kết án có hình phạt bổ sung là bị tước một số quyền công dân

Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do BLHS quy định thì bị tước một hoặc một số quyền công dân bao gồm: quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước; quyền làm việc trong cầc cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân. Thời hạn tước một số quyền công dân là từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

2.4 Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng với tính cách là hình phạt bổ sung khi thấy nếu để người bị kêt án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội. Thời hạn cấm là từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nêu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

Trong thời gian chấp hành hình phạt tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước và những quy định khác liên quan tới việc chấp hành các hình phạt bổ sung nêu trên.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group