1. Khái niệm về điều khoản bất khả kháng.
Điều khoản về sự bất khả kháng trong mua bán thương mại là điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương quy định phương án xử lí trường hợp bất khả kháng. Thông thường, điều khoản bất khả kháng bao gồm các nội dung sau: 1) Phạm vi của bất khả kháng; 2) Hậu quả của bất khả kháng; 3) Thời hạn và cách thức thông báo cho những người có liên quan sau khi xuất hiện trường hợp bất khả kháng; 4) Các chứng cứ chứng minh trường hợp bất khả kháng là thực tế.
Ví dụ: Điều khoản trong hợp đồng thuê tàu chuyến quy định các vấn để liên quan đến tàu dùng để vận chuyển hàng hoá. Theo điều khoản này, bên thuê tàu và bên cho thuê tàu thoả thuận ghi nhận các thông tin cần thiết về tàu như: tên, tuổi và các đặc tính kĩ thuật của tàu… Trong trường hợp người cho thuê tàu phải thay thế tàu thì tàu thay thế phải bảo đảm những tiêu chuẩn kĩ thuật mà các bên đã thoả thuận trong điều khoản về tàu.
2. Điều kiện để áp dụng các điều khoản bất khả kháng
Để được áp dụng điều khoản bất khả kháng cần đáp ứng đủ 3 điều kiện sau đây:
– Thứ nhất, đây phải là sự kiện xảy ra một cách khách quan: “Sự kiện khách quan” trong trường hợp này có thể là các hiện tượng do thiên nhiên gây ra làm cản trở tới việc thực hiên hợp đồng như động đất, bão lụt, núi lửa hoạt động, sóng thần, …lúc này bên vi phạm hợp đồng không cần phải chứng minh mà vẫn được miễn trách nhiệm.
– Thứ hai, các bên chủ thể hợp đồng không thể nhìn thấy trước hoặc dự đoán trước việc xảy ra sự kiện đó vào thời điểm giao kết hợp đồng, tức là sự kiện này phải xảy ra sau khi kí kết hợp đồng.
– Thứ ba, sự việc xảy ra “không thể khắc phục” được mặc dù các bên chủ thể hợp đồng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết. Nếu bên có nghĩa vụ có khả năng khắc phục, hạn chế thiệt hại xảy ra mà lại không thực hiện, để mặc cho hậu quả xảy ra thì cho dù có sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm hợp đồng cũng không được miễn trừ trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
3. Lợi ích của việc áp dụng điều khoản bất khả kháng
Trong quá trình đàm phán, kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa, đặc biệt là các hợp đồng dài hạn thì việc xảy ra rủi ro (rủi ro từ thiên nhiên, con người, xã hội …) dẫn đến tranh chấp phát sinh là điều không thể tránh khỏi. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về các điều khoản “Bất khả kháng” vào hợp đồng lúc này là điều rất cần thiết. Hơn nữa, điều khoản này cũng rất phổ biến và được quan tâm trong thực tiễn thương mại quốc tế, cho nên, các doanh nghiệp Việt Nam không thể là “người ngoài cuộc” bỏ qua nó được mà cần phải tận dụng để bảo vệ quyền lợi của mình.
Khi đáp ứng được các điều kiện áp dụng điều khoản bất khả kháng, nếu có sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng sẽ: (i) được miễn trách nhiệm nếu nghĩa vụ không được thực hiện, không được thực hiện đầy đủ hoặc không được thực hiện đúng do sự kiện bất khả kháng gây ra; (ii) được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng bị chậm trễ do sự kiện bất khả kháng; (iii) nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng dẫn đến việc thực hiện hợp đồng sẽ không có lợi cho các bên thì các bên có thể chấm dứt việc thực hiện hợp đồng. Cụ thể như sau:
– Được miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng gây ra:
Theo quy định chung của thế giới (khoản 1 Điều 79 Công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1980 (CISG)) hay khoản 1 Điều 7.1.7 của Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004) thì sự kiện bất khả kháng sẽ là căn cứ để bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng được miễn trách nhiệm.
Đối với quy định của pháp luật Việt Nam cũng vậy, ngay tại khoản 2 Điều 351 Bộ Luật dân sự 2015 có quy định “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Như vậy, nếu không thực hiện được nghĩa vụ của hợp đồng nhưng do sự kiện bất khả kháng thì bên vi phạm được miễn trách nhiệm dân sự.
Tuy nhiên, để đươc coi là một căn cứ miễn trách nhiệm, thì sự kiện bất khả kháng phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hành vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, việc chứng minh của bên gặp bất khả kháng sẽ gồm 2 điểm: một là, sự tồn tại của trường hợp bất khả kháng và hai là, quan hệ nhân quả giữa nó và hành vi vi phạm hợp đồng. Do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tiến hành ký kết và thực hiện giữa các thương nhân ở các nước khác nhau, thậm chí ở rất xa nhau. Cho nên, để tránh việc một bên đưa ra các sự kiện minh chứng giả tạo, người ta đòi họ phải đưa ra được các bằng chứng xác thực. Công ước Viên năm 1980 không quy định các biện pháp, cách thức chứng minh cho trường hợp gặp bất khả kháng. Còn trong thực tiễn thì các bên thường quy định trong hợp đồng về việc chứng minh bất khả kháng là một giấy chứng nhận của Phòng thương mại tại quốc gia nơi xảy ra sự kiện hoặc là xác nhận của một cơ quan nào đó có thẩm quyền của Nhà nước.
– Kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tương ứng với thời gian tổn tại bất khả kháng. Điều này có thể được lý giải như sau:
Khi một nhà kinh doanh ký kết hợp đồng thương mại quốc tế thì họ đã có những kế hoạch riêng của mình và chờ đợi thu được lợi nhuận thông qua việc thực hiện hợp đồng. Nếu hợp đồng không thực hiện được, mục đích thương mại không đạt, các chi phí đã bỏ ra không thu hồi được sẽ gây ra những tổn thất lớn không những về kinh tế mà còn về mối quan hệ làm ăn lâu năm giữa các bên. Như vậy, việc không thực hiện nghĩa vụ, dù không do lỗi của bên nào đi nữa cũng có thể mang lại thiệt hại lớn cho các bên. Cho nên, trong thực tiễn thương mại quốc tế người ta đã rút ra kết luận là: thà được thực hiện chậm còn hơn là không có. Tuy nhiên, việc đó còn phụ thuộc vào thời gian tồn tại của bất khả kháng. Điều này được quy định tại khoản 1 Điều 296 Luật thương mại năm 2005.
Cụ thể Luật thương mại quy định như sau:
“Điều 296. Kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng
1. Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:
a) Năm tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
b) Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng”.
– Chấm dứt các quan hệ hợp đồng giữa hai bên
Đây là trường hợp bất khả kháng xảy ra và tổn tại trong một thời gian khá dài làm cho việc thực hiện hợp đồng không còn ý nghĩa đối với một hoặc cả hai bên hoặc hậu quả của bất khả kháng là rất nghiêm trọng mà bên vi phạm hợp đồng dù đã áp dụng biện pháp cần thiết nhưng cũng không thể khắc phục được.
Chẳng hạn, người bán đã bị tổn thất rất nặng nề về toàn bộ lô hàng đang được giao cho đối tác giao (do sự kiện bão lớn làm chìm tàu, hàng hóa không thể cứu vớt), sau đó người bán không còn cách nào để có hàng giao cho người mua nữa.
Lúc này, bên vi phạm hợp đồng có thể viện dẫn điều khoản về những trường hợp bất khả để được chấm dứt hợp đồng, miễn trách nhiệm của mình.
4. Điều khoản bất khả kháng trong Công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hóa (CISG).
CISG quy định về bất khả kháng tại Điều 79 dưới tiêu đề Exemption (Miễn trách) theo đó “một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kì một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện đó là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lí rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc kí kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục được hậu quả của nó”. Chỉ những trở ngại nào thực sự đến mức khiến cho việc thực hiện các nghĩa vụ là không thể (impossibile) mới được xem xét, còn những trường hợp tuy có gây hoặc đe doạ gây khó khăn trở ngại đến việc thực hiện nghĩa vụ hoặc chỉ dừng ở mức không khả thi (impracticable) thường có thể sẽ không được xem xét. Ví dụ, công ty Tsakiroglou và Noblee Thorl GMbH đã thỏa thuận mua bán đậu phộng Sudan giá CIF, tuy nhiên, kênh đào Suez bất ngờ đóng cửa làm cho lộtrình của tàu phải vòng qua Mũi Hảo Vọng. Như vậy, với một lộ trình mới này, Người mua phải chịu thêm một khoản phí lớn nữa so với dự tính ban đầu, tuy nhiên đây không phải là trường hợp bất khả kháng vì trở ngại này không làm cho việc thực hiện của người mua là không thể thực hiện được. Và quan trọng là một bên không được viện dẫn việc không thực hiện nghĩa vụ của bên kia trong chừng mực mà việc không thực hiện nghĩa vụ đó là do những hành vi hay sơ suất của chính họ (Điều 80). CISG quy định miễn trách cho cả người bán và người mua, đề cập đến tất cả các trường hợp bất khả kháng có thể xảy ra trong việc thực hiện bất cứ nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng.
Bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG:
– Về hậu quả pháp lí, theo CISG bên vi phạm chỉ được miễn trách nhiệm phải thực hiện các biện pháp đền bù thiệt hại gây ra bởi sự kiện bất khả kháng, bên bị vi phạm có quyền tiến hành tất cả các biện pháp bảo hộ pháp lí hay chế tài còn lại theo quy định của Công ước bao gồm quyền được yêu cầu giảm giá hàng hoá (Điều 50), buộc thực hiện hợp đồng (Điều 46, Điều 62), tuyên bố huỷ hợp đồng (Điều 49, Điều 64), và thanh toán tiền lãi trên các khoản thanh toán chậm (Điều 78).
– Về thời hạn, CISG quy định sự miễn trách chỉ có hiệu lực trong thời kì tồn tại sự kiện khó khăn, trở ngại (Điều 79. 3). Về nghĩa vụ thông báo, theo CISG bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải thông báo cho bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ. Nếu thông báo không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý từ khi bên không thực hiện nghĩa vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc bên kia không nhận được thông báo.
– Khi nhận dạng tranh chấp về trường hợp bất khả kháng theo CISG, tranh luận của các bên thường xoay quanh các tiêu chí để công nhận một trường hợp là bất khả kháng. Đơn cử như sự kiện trở ngại có phải là nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; thế nào là “nằm ngoài sự kiểm soát” của một bên; thế nào là “khắc phục được” hay “tránh được” sự kiện trở ngại; hay sự “không tiên liệu trước” về những sự kiện như vậy phải được hiểu như thế nào.
Do đặc điểm phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế như sự mở rộng về không gian, sự kéo dài về thời gian, sự khác nhau về địa lí, tập quán, quy định của mỗi quốc gia mà khả năng xảy ra những trường hợp bất khả kháng là rất lớn. Bên cạnh đó, do hậu quả pháp lí là được miễn trách và trong nhiều trường hợp có thể thay đổi hoàn toàn vị thế của các bên nên không tránh được khả năng các bên tìm cách lợi dụng trường hợp bất khả kháng để cố gắng giải thoát trách nhiệm khi có những hoàn cảnh bất lợi xảy đến hoặc để trục lợi khi giá cả thị trường thay đổi theo hướng có lợi cho bên mình. Một số hợp đồng được soạn thảo với điều khoản bất khả kháng rất cụ thể chi tiết có thể hạn chế được tranh chấp xảy ra nhưng có rất nhiều hợp đồng thiếu vắng điều khoản quan trọng này.
5. Những lưu ý khi áp dụng điều khoản bất khả kháng trong CISG
CISG là một văn bản thống nhất luật được áp dụng rộng rãi trên thế giới và đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tận dụng được các lợi ích đó, khi áp dụng CISG, doanh nghiệp và các chủ thể áp dụng cần lưu ý một số vấn đề sau:
– Các quy định của CISG không bao trùm mọi vấn đề pháp lý có liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
– CISG chưa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề pháp lý mới phát sinh trong thương mại quốc tế, ví dụ các quy phạm pháp lý liên quan đến thương mại điện tử. Tuy nhiên, trong những trường hợp này vẫn có thể vận dụng các nguyên tắc cơ bản của công ước để giải quyết các tình huống phát sinh đó.
– Dù thành công ở hầu hết các nước thành viên, ở một vài nước khác, CISG không đạt được những thành tựu như mong đợi. Điển hình nhất là tại Hoa Kỳ, CISG đã không gây được tiếng vang và không được sử dụng với tần suất như mong đợi. Các tòa án Hoa Kỳ cũng thường từ chối áp dụng CISG.
– Dù rất nhiều đối tác thương mại lớn trên thế giới đã là thành viên CISG, vẫn còn một số đối tác quan trọng của Việt Nam chưa tham gia Công ước này.
Luật LVN Group (Sưu tầm)