1. Đối tượng điều chỉnh

Các nhà nghiên cứu lý luận pháp lý Việt Nam có chung quan điểm mỗi ngành luật độc lập có phương pháp điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh riêng, mang tính đặc trưng. Nghiên cứu những đặc trưng của phương pháp và đối tượng điều chỉnh làm rõ hơn tính độc lập của ngành luật. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay làm xuất hiện nhiều vấn đề mới trong đời sống xã hội, chính trị mang tính đa diện, có tính tương quan chặt chẽ và cần phải được xem xét, nghiên cứu bằng các phương pháp tiếp cận liên ngành, đa ngành mới có thể phân tích rõ hơn và toàn diện hơn về một loại hiện tượng, sự kiện, hành vi nhất định. Ngày nay, vấn đề an ninh phi truyền thống, các vấn đề xuyên biên giới, xuyên quốc gia như tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đã được các nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn thống nhất là những hiện tượng chính trị, xã hội, pháp lý rất phức tạp, mang tính đa diện. Do vậy, giải quyết vấn đề tội phạm xuyên quốc gia, có tổ chức xuyên quốc gia phải sử dụng các biện pháp “chuyên dụng”, trong đó, pháp luật hình sự, TTHS cần thiết phải có nhiều cải cách, với xu hướng mở rộng thẩm quyền quốc gia, quy định nhiều biện pháp tiến bộ hơn như điều tra đặc biệt trong TTHS, giao quyền cho các cơ quan chức năng được phép phối hợp với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để giải quyết vụ việc tội phạm xuyên quốc gia.
Xuất phát từ yêu cầu, mục đích của hoạt động HTQT trong lĩnh vực TTHS, các quốc gia sẽ thỏa thuận về nội dung hợp tác và tổ chức thực hiện các nội dung đó. Tuy nhiên, về lý luận cũng như trong thực tiễn cho thấy, trong nhiều trường hợp, các bên sẽ thỏa thuận cụ thể và chi tiết về hình thức và nội dung hợp tác, nhưng cũng có trường hợp các bên chỉ thỏa thuận một hoặc một số lĩnh vực hợp tác hoặc thỏa thuận quy định những vấn đề mang tính chất nguyên tắc (thỏa thuận khung) về các hoạt động hợp tác. Điều này phụ thuộc vào mức độ quan hệ ngoại giao, cân nhắc lợi ích quốc gia dân tộc và khả năng thực hiện giữa các quốc gia cũng như yêu cầu đặt ra trong thực tiến đấu tranh PCTP của mỗi quốc gia. Các ĐƯQT mà Nhà nước ta là thành viên thường quy định chung cả về hình thức và nội dung hợp tác.
Khái quát lý luận và thực tiễn về nội dung HTQT trong lĩnh vực TTHS cho thấy, các hoạt động hợp tác chủ yếu được tiến hành theo một số nội dung cơ bản gồm: Thứ nhất, hợp tác trong việc xác định, phân định thẩm quyền tài phán quốc gia và nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia (mục đích, thẩm quyền, trách nhiệm, nội dung hoạt động hợp tác cụ thể) thông qua việc đàm phán, soạn thảo, ký kết các thỏa thuận quốc tế đa phương, các hiệp định song phương nhằm ghi nhận cam kết quốc tế tận tâm cùng thực hiện các nội dung và biện pháp trong TTHS mà các bên cùng quan tâm. Thứ hai, hợp tác thực hiện các nội dung cụ thể HTQT trong từng giai đoạn TTHS, gồm TTTPHS, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, các hoạt động HTQT khác, cụ thể như sau:

2. Hợp tác quốc tế trong việc xác định thẩm quyền tài phán quốc gia và nghĩa vụ hợp tác

giữa các quốc gia.

Quốc gia có thẩm quyền cao nhất đối với mọi vụ việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra trong phạm vi lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, nếu vụ việc liên quan đến tội phạm xuyên quốc gia, việc xác định thẩm quyền tài phán của quốc gia, nhất là thẩm quyền vượt lãnh thổ rất quan trọng trong việc xác định nhu cầu, lợi ích và mức độ HTQT trong điều tra, xử lý vụ án loại này. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xác định thẩm quyền sẽ có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của quốc gia khác, có khả năng xung đột thẩm quyền giữa các quốc gia. Vì vậy, thẩm quyền vượt lãnh thổ của quốc gia sẽ chỉ có thể được công nhận bởi các quốc gia khác trên cơ sở pháp luật quốc tế. Trong nhiều trường hợp, các quốc gia có trách nhiệm quốc tế phải thực hiện thẩm quyền đối với những vấn đề có liên quan đến các giá trị chung được cộng đồng quốc tế tôn trọng và bảo vệ. Vì thế, để xác định thẩm quyền của mình, các quốc gia tiến hành ký kết nhiều ĐƯQT quy định nghĩa vụ, phạm vi thực hiện thẩm quyền quốc gia đối với các vụ án hình sự mang tính quốc tế (tội ác diệt chủng, cướp biển, tội ác chiến tranh, hành vi tra tấn, khủng bố quốc tế…); đồng thời, quốc gia có nghĩa vụ thực hiện và bảo đảm các quyền con người phổ quát.

Thẩm quyền, trong công pháp quốc tế được hiểu rộng hơn so với nghĩa của từ này trong luật quốc gia hoặc trong tư pháp quốc tế. Thẩm quyền quốc gia không chỉ liên quan đến quyền xét xử của tòa án, quyền điều chỉnh của pháp luật quốc gia mà còn bao hàm cả quyền ban hành và thực thi pháp luật. Xét về phạm vi lãnh thổ áp dụng, thẩm quyền quốc gia gắn chặt với lãnh thổ quốc gia. Đây là thẩm quyền theo lãnh thổ. Hệ quả là các quốc gia khác không có thẩm quyền đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của một quốc gia đã xác định. Nếu sự việc hoặc chủ thể tồn tại ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia, việc thực hiện thẩm quyền của quốc gia đối với  với chủ thể hoặc sự việc đó sẽ được coi là vượt ngoài lãnh thổ quốc gia. Vượt ngoài lãnh thổ là trường hợp thực hiện pháp luật đối với tình huống xảy ra ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia ban hành quy định đó. Trong nhiều trường hợp, việc thực hiện pháp luật ở ngoài lãnh thổ gây phức tạp trong quan hệ đối ngoại, nhất là có thể bị coi là can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, một nguyên tắc được pháp luật quốc tế công nhận và bảo vệ, được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc. Để giải quyết vấn đề này, pháp luật quốc tế công nhận thẩm quyền căn cứ vào tác động hoặc ảnh hưởng của hành vi: Nếu hành vi ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia (nguyên tắc bảo vệ) như ảnh hưởng đến lợi ích, tác động đến công dân thì quốc gia có thẩm quyền. Tuy vậy, để đánh giá tính hợp lý khi thực hiện thẩm quyền trong những trường hợp này, quốc gia cần cân nhắc nhiều yếu tố: Vấn đề quốc tịch, sự liên quan đến chủ quyền quốc gia, cam kết về việc miễn trừ trách nhiệm đối với cán bộ đại diện ngoại giao… tạo nên mối liên hệ với quốc gia.
Bên cạnh đó, quốc gia còn có thẩm quyền căn cứ vào quốc tịch: Đây là thẩm quyền của quốc gia đối với công dân của mình đã được pháp luật quốc tế công nhận. Quốc tịch là biểu hiện về mặt pháp lý của việc một cá nhân hoặc một pháp nhân có mối quan hệ với dân cư cùa một quốc gia xác định. Căn cứ thẩm quyền đối với chủ thể mang quốc tịch là lợi ích quốc gia đặc biệt đối với chủ thể mang quốc tịch đó. Mối quan hệ giữa quốc gia và chủ thể mang quốc tịch của quốc gia đó có thể vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia. Khi đó, quốc gia có thẩm quyền đối với công dân của mình cho dù công dân đang ở ngoài lãnh thổ quốc gia, kể cả trường hợp mang tư cách đại diện quốc gia bị xử lý theo đường ngoại giao. Mối liên hệ về quốc tịch cũng áp dụng trong trường hợp chủ thể là pháp nhân, hoặc phương tiện vận tải đường không, đường biển…
Hiện nay, sự phát triển của pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia. Theo đó, các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau một cách hòa bình, thiện chí để giải quyết những vấn đề hoặc tranh chấp thuộc thẩm quyền ngoài lãnh thổ. Quốc gia có thể viện dẫn sự tồn tại của mình với tư cách là chủ thể có chủ quyền, về an ninh quốc gia, sự thống nhất lãnh thổ để xác lập thẩm quyền quốc gia. Pháp luật quốc tế công nhận quyền được thực hiện thẩm quyền thực hiện pháp luật đối với tất cả các hành vi dù được thực hiện ở nước ngoài nhưng xâm phạm đến những lợi ích cơ bản của quốc gia. Đây là thẩm quyền vượt ngoài lãnh thổ, dựa trên nguyên tắc bảo vệ của pháp luật quốc tế.

3. Các nội dung hợp tác quốc tế trong từng giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể

Trên cơ sở phân chia theo các giai đoạn của TTHS và đặc điểm quan hệ chặt chẽ, ràng buộc của Cộng đồng châu Âu, pháp luật về HTQT trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở châu Âu điều chỉnh các hoạt động: Chuyển giao thông tin, tài liệu, chứng cứ, hồ sơ trước khi xét xử (ở giai đoạn điều tra); TTTPHS; Dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; Chuyển giao hồ sơ vụ án hình sự để tiếp tục truy cứu TNHS; Xác định và bảo vệ nhân chứng; Chuyển giao vụ án hình sự để truy tố; Công nhận giá trị pháp lý và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực.
Ở Việt Nam, trên cơ sở khái niệm HTQT trong TTHS của BLTTHS năm 2015, HTQT trong TTHS gồm những hoạt động: TTTPHS; Dẫn độ; Tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và Các hoạt động HTQT khác (gồm phối hợp điều tra, điều tra chung, hợp tác trong áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, chuyển giao hồ sơ để truy cứu TNHS, công nhận quyết định và bản án có hiệu lực của tòa án hình sự nước ngoài..). Các hoạt động này được thực hiện nhằm phục vụ yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự theo hướng mở rộng hơn quy định của BLTTHS năm 203 nhằm phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng của Nhà nước ta hiện nay.
Quan điểm khác lại cho rằng, pháp luật về HTQT trong lĩnh vực TTHS quy định thẩm quyền, cách thức, trình tự, thủ tục, thời hạn thực hiện các nội dung  HTQT trong lĩnh vực TTHS, gồm: Ký kết, gia nhập ĐƯQT trong lĩnh vực TTHS; TTTPHS; dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và các hoạt động HTQT khác trong lĩnh vực TTHS. Theo chúng tôi, cách tiếp cận thứ hai phù hợp với thực tiễn và lý luận khoa học pháp lý Việt Nam, thể hiện ở chỗ, pháp luật về HTQT trong lĩnh vực TTHS ở Việt Nam quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn cho các hoạt động HTQT trong TTHS, thông qua đó các bên có thể thực hiện các nội dung hợp tác trong tất cả các giai đoạn của TTHS; bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

3.1 Ghi nhận bằng các hình thức luật định về nghĩa vụ quốc tế của quốc gia trong lĩnh vực TTHS

Theo đó, nội dung này gồm quy định về đàm phán, ký kết, gia nhập, nội luật hóa hoặc hài hòa hóa quy định của ĐƯQT trong lĩnh vực TTHS, ghi nhận tập quán quốc tế về nguyên tắc có đi có lại, miễn trừ trách nhiệm quốc gia trong HTQT trong lĩnh vực TTHS;

3.2 Quy định về TTTPHS, là hình thức HTQT để thu thập chứng cứ, trao đổi thông tin, tài liệu

hồ sơ vụ án hình sự lời khai, công cụ, phương tiện phạm tội… ở nước ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia yêu cầu nhưng cần thiết để giải quyết vụ việc hình sự có yếu tố nước ngoài. Việc TTTPHS được xem xét tiến hành khi có văn bản ủy thác tư pháp của quốc gia gửi đến quốc gia khác theo trình tự, thủ tục và nội dung cụ thể (trong đó, có nội dung chứng minh làm rõ thẩm quyền xét xử vụ việc hình sự có liên quan, và đề nghị tiến hành các hoạt động TTHS nhất định phục vụ việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự). Việc tiếp nhận yêu cầu, xem xét, chấp nhận hoặc từ chối và thực hiện yêu cầu TTTPHS phải tuân thủ quy định của ĐƯQT có liên quan hoặc thực hiện nguyên tắc có đi có lại, pháp luật tương ứng của quốc gia được yêu cầu bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bảo vệ chủ quyền quốc gia, tội phạm kép và quyền con người.

3.3 Quy định về dẫn độ

Dẫn độ được quy định tại Điều 32 Luật TTTP năm 207, là việc một nước chuyển giao cho nước khác người có hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự đang có mặt trên lãnh thổ của nước mình để nước được chuyển giao truy cứu TNHS hoặc thi hành án đối với người đó. Bản chất của hoạt động này là bảo đảm sự có mặt của cá nhân bị tình nghi thực hiện tội phạm (hoặc đã bị kết án) trước tòa hình sự để truy cứu TNHS (hoặc thi hành án). Sự đồng ý với việc dẫn độ của đối tượng bị dẫn độ không là yếu tố quyết định cho việc bị dẫn độ. Dẫn độ phải tuân thủ nguyên tắc phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của quốc gia nhận yêu cầu; ĐƯQT có quy định về dẫn độ hoặc tiến hành trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc có đi có lại. Trường hợp không dẫn độ, vụ việc phải được chuyển cho cơ quan có thẩm quyền ở nước nhận yêu cầu để truy cứu TNHS đối với người đó.

3.4 Quy định về tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù

Đây là việc một quốc gia thực hiện việc chuyển giao người nước ngoài phạm tội đã bị tòa án của quốc gia đó kết án phạt tù và bản án đã có hiệu lực pháp luật về nước mà người bị kết án là công dân hoặc nước khác đồng ý tiếp nhận, trên cơ sở tự nguyện của người đó để tiếp tục thi hành bản án theo ĐƯQT hoặc theo nguyên tắc “có đi có lại”. Việc chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù phải có sự đồng ý của ba bên, quốc gia chuyển giao, quốc gia tiếp nhận và người đang chấp hành án phạt tù vì lợi ích tốt nhất cho việc chấp hành án phạt tù và việc tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành án.

3.5 Quy định các hoạt động hợp tác quốc tế khác trong lĩnh vực tố tụng hình sự

gồm các hoạt động bảo vệ nạn nhân, bảo vệ nhân chứng phối hợp điều tra chung, phối hợp áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt (ghi âm, ghi hình bí mật, thu thập dữ liệu điện tử…), tịch thu, thu hồi tài sản do phạm tội mà có… tùy yêu cầu việc điều tra, truy tố, xét xử.

Để hiện thực hóa các hoạt động hợp tác nêu trên, các bên ký kết đều có thể tiến hành các biện pháp cụ thể, như: Xây dựng chương trình, kế hoạch, phương án hợp tác; trao đổi thông tin, tài liệu, vật chứng; bố trí, sắp xếp để bảo đảm một người có mặt trên lãnh thổ của nhau để hỗ trợ hoặc phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; hỗ trợ kinh phí, phương tiện, trang thiết bị và đào tạo cán bộ.

Như vậy, có thể thấy pháp luật về HTQT trong lĩnh vực TTHS, với tính chất là tổng hợp các quy phạm pháp luật về HTQT trong lĩnh vực TTHS thực sự rất đa dạng, phức tạp, bao gồm các quy phạm của nhiều ngành luật khác nhau, như: Luật TTHS, luật quốc tế (công pháp quốc tế), luật kinh tế, luật hành chính (quản lý hành chính nhà nước, tổ chức bộ máy), luật dân sự, luật thương mại (các vấn đề liên quan đến yếu tố dân sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tài sản do phạm tội mà có, công cụ, phương tiện phạm tội, vấn đề pháp nhân thương mại phạm tội) và các ngành luật khác. Như vậy, ngoài quan hệ giữa nhà nước và cá nhân, pháp nhân có hành vi phạm tội ở các giai đoạn tố tụng khác nhau, quan hệ giữa các chủ thể là nhà nước hoặc cơ quan đại diện nhà nước cũng phát sinh trong HTQT trong lĩnh vực TTHS, chủ yếu là:
+ Quan hệ pháp luật phát sinh trong TTTPHS giữa Quốc gia yêu cầu – Quốc gia được yêu cầu đối với thông tin, tài liệu, chứng cứ và hồ sơ vụ án hình sự; trong hoạt động dẫn độ, gồm quan hệ phát sinh giữa Quốc gia yêu cầu – Quốc gia được yêu cầu đối với người (thể nhân) bị yêu cầu dẫn độ; hoạt động chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù gồm quan hệ phát sinh giữa Quốc gia yêu cầu – Quốc gia được yêu cầu – cá nhân, pháp nhân là đối tượng bị kết án và đã có quyết định thi hành án hình sự. Các quan hệ nêu trên chỉ phát sinh khi có sự việc nghi ngờ do hành vi phạm tội xảy ra. Về mặt pháp luật TTHS, các quan hệ này phát sinh sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền ở quốc gia yêu cầu và sau khi có văn bản yêu cầu gửi quốc gia đối tác.
+ Xem xét trong từng giai đoạn tố tụng, có thể thấy: Trong giai đoạn điều tra, các hoạt động TTTPHS, dẫn độ điều chỉnh các quan hệ giữa quốc gia yêu cầu – quốc gia được yêu cầu – người, tổ chức liên quan đang có mặt, hoạt động ở quốc  gia được yêu cầu; Trong giai đoạn truy tố, gồm các hoạt động TTTPHS được tiến hành, quan hệ pháp luật điều chỉnh giữa quốc gia yêu cầu – quốc gia được yêu cầu – người, tổ chức liên quan đang có mặt, hoạt động ở quốc gia được yêu cầu; Giai đoạn xét xử, hoạt động TTTPHS được triển khai, quan hệ phát sinh giữa quốc gia được yêu cầu – quốc gia yêu cầu – người, tổ chức liên quan là bị can, bị cáo đã được Tòa án hình sự của Quốc gia yêu cầu đưa ra xét xử. Giai đoạn thi hành án hình sự, các hoạt động TTTPHS, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, các quan hệ phát sinh giữa quốc gia yêu cầu – quốc gia được yêu cầu – người bị kết án phạt tù, pháp nhân phải thi hành án hình sự.

4. Phương pháp điều chỉnh

Theo lý luận truyền thống, phương pháp điều chỉnh của pháp luật được hiểu là những cách thức mà Nhà nước sử dụng pháp luật để tác động đến các quan hệ xã hội. Phương pháp điều chỉnh của luật TTHS Việt Nam được xác định căn cứ vào tính chất đặc thù của quan hệ pháp luật TTHS. Luật TTHS Việt Nam quy định hai phương pháp điều chỉnh đặc trưng là phương pháp quyền uy và phương pháp phối hợp – chế ước. Trong đó, phương pháp quyền uy thể hiện ở quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng; thể hiện trong việc cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng. Phương pháp phối hợp – chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện các quy định của BLTTHS để giải quyết vụ án hình sự, mức độ phối hợp – chế ước lẫn nhau được thể hiện trong các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan, các chủ thể tham gia trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Ngoài ra, vì điều chỉnh cả mối quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia, thể hiện ở các hoạt động cụ thể giữa các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia này với cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đối tác, pháp luật về HTQT trong lĩnh vực TTHS ở  Việt Nam còn sử dụng phương pháp ghi nhận, theo đó, công nhận các mối quan hệ phối hợp, giúp đỡ giữa các cơ quan có thẩm quyền trong nước và đối tác tương đương ở nước ngoài trong quá trình giải quyết vụ việc phạm tội xuyên quốc gia. Bởi pháp luật về HTQT trong lĩnh vực TTHS có một bộ phận là các ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên, ở một chừng mực nhất định trong tình huống thực hiện nguyên tắc có đi có lại, còn là một số quy định của pháp luật nước ngoài được Nhà nước công nhận, nội luật hóa hoặc hài hòa hóa quy định của ĐƯQT, cho phép thi hành bằng những thủ tục pháp lý đối với một số trường hợp là cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, khi thỏa mãn điều kiện phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và tập quán quốc tế. Ví dụ: Ở giai đoạn thi hành án hình sự, hoạt động tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù được tòa án có thẩm quyền ở nước nhận, sau khi đánh giá tính tương thích, phù hợp với hình phạt ở nước mình, ban hành quyết định tiếp nhận người đang chấp hành hình phạt tù và tiếp tục thi hành bản án phạt tù mà tòa án nước chuyển giao đã tuyên với người bị kết án. Khoản 2 Điều 491 BLTTHS năm 2015 quy định HTQT trong TTHS gồm TTTPHS; dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác được quy định tại BLTTHS, pháp luật về TTTP và ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên; Điều 500 BLTTHS năm 2015 quy định về trình tự, thủ tục xem xét yêu cầu thi hành bản án, quyết định hình sự của tòa án nước ngoài đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group