Người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật không biết hoặc không thể biết mình được lợi là không có căn cứ pháp luật.

Người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại.

Người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có thể được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó nếu người đó đã chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản hoặc 30 năm đối với bất động sản.

1. Khái niệm Nghĩa vụ hoàn trả tài sản do được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Khoản 2 Điều 579 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ trường hợp quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, cụ thể: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.”

Sự chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thông thường dựa trên những căn cứ pháp lí như: mua bán, vay, mượn, thừa kế… Trong thực tế, có những trường hợp, tài sản của người này chuyển sang người khác không dựa trên các căn cử do pháp luật quy định. Nêu do hành vi bất hợp pháp chiếm đoạt tài sản của người khác thì người chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình phải hoàn trả tài sản và bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.

Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật cần được hiểu là sự phát sinh quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của một chủ thể đối với một tài sản nhưng không dựa ttên những căn cứ do pháp luật quy định. Người được lợi về tài sản không biết tài sản đó là của người khác mà coi tài sản đó là của mình.

Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, tuy có làm giảm sút một phần khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác nhưng không phải là hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về tài sản. Do vậy không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Người được lợi về tài sản của người khác phải hoàn trả cho chủ sở hữu khoản lợi đó (khoản 2 Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2015).

Phân biệt hai loại nghĩa vụ trên có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại, người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra, kể cả thu nhập bị mất, bị giảm sút do chủ sở hữu không sử dụng được tài sản.

2. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ hoàn trả do được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

2.1 Phải có thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu

Thiệt hại trong trường hợp này được hiểu là sự mất mát tài sản, thiếu hụt một phần trong khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, chủ sở hữu không còn tài sản để sử dụng. Do vậy, tài sản của chủ sở hữu không gia tăng hoặc chủ sở hữu không thu được hoa lợi từ việc khai thác công dụng của tài sản.

2.2 Được lợi tài sản không dựa trên căn cứ pháp luật

Pháp luật quy định một số căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu, chiếm hữu tài sản của một chủ thể như: thông qua hợp đồng dân sự, được thừa kế tài sản…

Thông thường, việc được lợi về tài sản bắt đầu ngay từ thời điểm chiếm hữu tài sản không dựa trên căn cứ cụ thể do pháp luật quy định. Có một số trường hợp khác khi chiếm hữu tài sản có căn cứ như thông qua các hợp đồng hoặc bản án dân sự có hiệu lực nhưng sau đó hợp đồng bị vô hiệu hoặc bản án bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, việc chiếm hữu của một người từ chỗ có căn cứ pháp luật đã chuyển thành chiếm hữu không có căn cứ pháp luật: Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xắc định đó là hành vi chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hay được lợi về tài sản.

2.3 Người được lợi về tài sản không có lỗi

Khi được lợi tài sản, người được lợi không biết, mà coi tài sản đó là của mình. Nếu người được lợi tài sản biết được tài sản đó không phải là của mình thì phải trả lại cho chủ sở hữu hoặc giao nộp cho uỷ ban nhân dân xã, phường (Điều 228 Bộ luật dân sự năm 2015). Nếu người được lợi cố ý chiếm hữu tài sản thì phải chịu trách nhiệm về hành vi chiếm hữu tài sản do được lợi cùa mình. Trong trường hợp này, họ trở thành người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, không ngay tình.

3. Nghĩa vụ của người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Người được lợi không có căn cứ pháp luật có nghĩa vụ hoàn trả khoản lợi đã nhận (khoản 2 Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2015). Khoản lợi phải trả là khoản lợi thực tế mà người được lợi đã hưởng hoặc khoản lợi tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ. Những hoa lợi và lợi tức thu được trước thời điểm phát sinh nghĩa vụ không phải hoàn trả. Trường hợp này cần phân biệt tính trung thực hoặc không trung thực của người được lợi tài sản. Có nghĩa là việc người đó thu lợi là do không biết rằng không có căn cứ pháp luật trong việc sử dụng tài sản, người đó coi tài sản là của mình; trong ý thức chủ quan, họ coi tài sản đó thuộc quyền sở hữu của mình, cho nên người được lợi tự do khai thác lợi ích từ tài sản. •

Vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả, giá trị tài sản có thể bị giảm đi so với giá trị khi bắt đầu có tài sản đó. Nếu trong thời gian chiếm giữ tài sản, người được lợi đã sử dụng tài sản đó hoặc vô ý làm cho tài sản bị hư hỏng thì người được lợi phải trả tài sản đang còn và bồi thường thiệt hại phần hư hỏng. Nếu tài sản bị tiêu huỷ hoặc bị mất, người được lợi phải đền bù bằng tiền. Giá trị đền bù tính tại thời điểm trả.

Có quan điểm cho rằng nếu vật bị hư hỏng, khi phát sinh nghĩa vụ, người được lợi trả cho chủ sở hữu tài sản trong tình trạng thực tế đó. Trong trường hợp vật bị mất hoặc tiêu huỷ, người được lợi về tài sản không phải đền bù. Theo quan điểm này, trước khi phát sinh nghĩa vụ, người được lợi coi tài sản đó là của mình cho nên có thể họ không quan tâm đến tài sản, để cho tài sản hư hỏng, mất mát hoặc tài sản đó đối với họ không cần thiết. Do vậy, họ không bảo quản, giữ gìn tài sản.

Đối với những hoa lợi, lợi tức thu được từ việc sử dụng tài sản: khi phải trả lại tài sản, người được lợi không phải trả những khoản hoa lợi, lợi tức đó. Người được lợi chỉ phải trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm biết hoặc phải biết việc được lợi tài sản của người khác (khoản 2 Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2015).

Trường hợp tài sản được lợi đã được chuyển cho người thứ ba, chủ sở hữu có quyền yêu cầu người thứ ba hoàn trả tài sản cho mình. Nếu người thứ ba mua tài sản của người được lợi thì có quyền yêu cầu người đó phải trả lại tiền cho mình.

Nếu tài sản do người thứ ba chiếm hữu bị hư hỏng do lỗi của họ thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tài sản do người thứ ba chiếm hữu không còn, người được lợi về tài sản phải bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu.

Trường hợp người chiếm hữu, người sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật đã giao tài sản cho người thứ ba thì khi bị chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản yêu cầu hoàn trả, người thứ ba có nghĩa vụ hoàn trả tài sản đó, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác; nếu tài sản đó đã được trả bằng tiền hoặc có đền bù thì người thứ ba có quyền yêu cầu người đã giao tài sản cho mình bồi thường thiệt hại.

Theo quy định tại Điều 583 Bộ luật Dân sự 2015, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản, người bị thiệt hại được hoàn trả tài sản thì phải thanh toán chi phí cần thiết mà người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đã bỏ ra để bảo quản, làm tăng giá trị của tài sản.

4. Tài sản hoàn trả:

– Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã thu được.

– Trường hợp tài sản hoàn trả là vật đặc định thì phải hoàn trả đúng vật đó; nếu vật đặc định đó bị mất hoặc hư hỏng thì phải đền bù bằng tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Trường hợp tài sản hoàn trả là vật cùng loại, nhưng bị mất hoặc hư hỏng thì phải trả vật cùng loại hoặc đền bù bằng tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật phải hoàn trả khoản lợi về tài sản đó cho người bị thiệt hại bằng hiện vật hoặc bằng tiền.

5. Quyền yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác với tài sản

– Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.

6. Quyền yêu cầu bồi thường

– Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại.

Mọi vướng mắc pháp lý về luật dân sự về nghĩa vụ hoàn trả người được lợi từ tài sản không có căn cứ pháp luật cũng như các vấn đề khác liên quan. Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, thừa kế trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật LVN Group