1. Tiểu sử về Friedrich von Wieser (1851-1926)

Friedrich von Wieser sinh ở Vienna năm 1851 trong gia đình quý tộc. Ở tuổi 17, ông vào Đại học Vienna học ngành luật. Sau khi tốt nghiệp năm 1872, Wieser vào làm trong một cơ quan chính phủ trong thời gian ngắn, thời gian này ông nghiên cứu kinh tế. Với tiền trợ cấp đi đường và cùng với người bạn thời niên thiếu (sau này là anh rễ ông), Eugen von Bohm- Bawerk, Wieser nghiên cứu kinh tế học ở Đại học Heidelberg (thời Karl Knies), Jena, và Leipzig. Cũng rất ấn tượng với quyển Principles của Menger, trong khi ở Đức, Wieser viết chuyên đề nghiên cứu về giá trị hình thành cơ sở tư tưởng sau này của ông. Năm 1884 ông được bổ nhiệm làm giáo sư kinh tế học tại Đại học Gezman ở Praque. Năm 1903, Wieser đảm nhận vị trí của Menger ở Đại học Vienna. Ông làm Bộ trưởng thương mại năm 1917, nhưng (do đế quốc Áo-Hung sụp đổ) sau này chuyển sang giảng dạy. Một con người có trí năng ảnh hưởng sâu rộng, Wieser dành hết quan tâm của mình để viết vô số chủ đề và biến ngôi nhà của mình thành diễn đàn truyền đạt nghệ thuật và tri thức (ông là cổ động viên nổi tiếng môn nhạc kịch).

Năm 1911, ông xuất bản Das Wesen und der Hauptinhalt der reasontischen Nationalokonomie ( Bản chất và Nội dung của Kinh tế học Lý thuyết Quốc gia ) mà trước đó có một đóng góp lớn khác, lý thuyết chi phí thay thế (hoặc chi phí cơ hội), được rút ra từ nghiên cứu của ông Theorie der gesellschaftlichen Wirtschaft ( Thuyết Kinh tế Xã hội ), xuất bản năm 1914. Chính tại đây, lần đầu tiên ông đặt ra thuật ngữ ” chi phí cơ hội “.

Năm 1917, Wieser được phong là thành viên của Nhà Lãnh chúa Áo và được phong tước vị Nam tước . Ông cũng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Thương mại trong Nội các Áo, mà ông giữ chức vụ này cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ nhất năm 1918. Tuy nhiên, hoạt động của ông đã bị Richard Riedl , Bộ trưởng Năng lượng và là người đề xướng rõ ràng chủ nghĩa can thiệp kinh tế , cản trở. những vấn đề có tầm quan trọng thứ yếu đối với quyền tài phán của Wieser . Wieser qua đời vào ngày 22 tháng 7 năm 1926 tại Salzburg, nơi ông được chôn cất.

2. Tác phẩm của Friedrich von Wieser

Tác phẩm lý thuyết quan trọng nhất của Wieser là Natural Value (Der naturliche Werth), xuất bản ở Vienna năm 1889. Quan tâm diện rộng khiến ông đảm nhận công việc pha trộn lý thuyết kinh tế và phân tích định chế. Social Economics, được viết như một tập rất hấp dẫn về lý thuyết trong bộ (Sách đồ sộ Grundriss der Sozialokonomik do Max Weber chủ biên. Eco­nomic Doctrine and Method của J. A. Schumpeter sau này trở thành History of Economic Analysis, viết như tập phương pháp luận theo từng đợt nối tiếp.

Trong những năm cuối đời, Wieser chuyển sang xã hội học, trên cơ sở phân tích toàn diện vô số các tổ chức xã hội, ông xuất bản công trình nghiên cứu xã hội quan trọng và tác phẩm sau cùng của ông, Das Gesetz der Macht (1926). Mặc dù Wieser quan tâm đến nhiều lĩnh vực đến mức khó tin, nhưng quan tâm chính của ông là kinh tế học, ông nổi tiếng chủ yếu là do sự triển khai các quan điểm của Menger về hiệu dụng, giá trị, định giá đầu vào – đầu ra. Thế nhưng, thật không may, sự nhấn mạnh đặt trên quan điểm lý thuyết thuần túy tách ra làm vẩn đục quan điểm của ông trong công trình nghiên cứu chuyên đề sau này Social Economics. Vì thế thảo luận sau đây sẽ cố gắng quân bình cả hai khía cạnh trong sự đóng góp của Wieser. Chúng ta bắt đầu thảo luận một số quan điểm lý thuyết quan trọng trong Natural Value.

3. Thuyết giá trị

Wieser có một số đóng góp quan trọng đối với lý thuyết giá trị Áo kể cả việc ông nghĩ ra thuật ngữ “hiệu dụng biên tế” (Grenznutzen). Phát biểu cơ bản của Wieser về định luật giá trị tổng quát triển khai trên cơ sở mô thức của Menger trước đây. Bằng ví dụ số học, Wieser giải thích định luật:

Dòng đầu mô tả số hàng hóa mua với các giá lựa chọn liệt kê ở dòng thứ hai trong ví dụ Wieser (ông gọi những giá này là “đơn vị giá trị”). Tổng hiệu dụng từ việc tiêu dùng các số lượng lựa chọn được tính bằng cách cộng vào các đơn vị giá trị liên tiếp nhau. Ví dụ, khi cá nhân đang tiêu dùng 2 đơn vị hàng hóa, tổng thích thú là 19 đơn vị hiệu dụng, tổng số của 1 đơn vị ở 10 và 1 đơn vị ở 9. Việc cộng thêm một đơn vị tiêu dùng thứ ba bổ sung thêm hiệu dụng biên tế của 8 lên đến tổng 27 đơn vị. Lưu ý rằng Wieser, cũng như Dupuit trước kia, đồng nhất giá hàng hóa (hay đơn vị giá trị) với hiệu dụng biên tế.

(I) Hàng hóa

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 11 11
(II) Gía cả 0 10 9 8 7 6 5 4 3 2 1 0
(III) Tổng hiệu dụng 0 10 19 27 34 40 45 49 52 54 55 55
(IV) Tổng giá trị 0 10 18 24 28 30 30 28 24 18 10 0
(V) Tổng hiệu dụng trừ tổng giá trị 0 0 1 3 6 10 15 21 28 36 45 55
nhánh tăng dần nhánh giảm dần

Dòng IV trong ví dụ trình bày phép tính tổng giá trị thu nhập, nghĩa là giá cả nhân với số lượng hàng hóa bán ra (dòng I nhân dòng II). Căn cứ vào hàm cầu dốc âm, tổng thu nhập lúc đầu tăng, đạt cực đại, sau đó giảm. Dòng V cho thấy giá trị mất đi từ sự không quan trọng, và chính sự khác nhau giữa tổng hiệu dụng và tổng thu nhập. Menger lập luận rằng chính việc sử dụng đơn vị sau cùng kho dự trữ hàng hóa tượng trưng cho giá trị của bất kỳ đơn vị của kho hàng đồng nhất. Lúc này Wieser cho rằng tổng giá trị của kho dự trữ tăng ít hơn giá trả cho các đơn vị hàng hóa bổ sung. Khi thêm vào đơn vị kho dự trữ thứ hai, cá nhân trải qua một gia tăng 9 đơn vị trong tổng hiệu dụng, nhưng lúc này cả hai đơn vị đều được định giá là 9. Vì đây là đơn vị biên tế tượng trưng giá trị đối với người tiêu dùng, anh ta sẽ miễn cưỡng trả hơn 9 đối với cả hai đơn vị. Vả lại, trong một thị trường cạnh tranh, chỉ một giá duy nhất đối với hàng hóa đồng nhất cũng chiếm ưu thế. Vì thế, tổng thu nhập sẽ tăng với điều kiện sự cộng thêm tăng dần vào tổng hiệu dụng vượt quá lỗ tăng dần. Wieser gọi tình huống này (mua hàng hóa 0 đến 5 trong ví dụ số học của ông) là nhánh giá trị “đi lên” (tăng), và tình huống ngược lại là nhánh giá trị “đi xuống” (giảm).

4. Ứng dụng thực tế của thuyết giá trị

– Đặt ra thuật ngữ ” tiện ích cận biên ” và định hình cho khái niệm này.

– Mang tính cách mạng vì nó cung cấp một cái nhìn mới về cuộc tranh luận về vấn đề giá trị kinh tế.

– Các giả định được thiết lập liên quan đến sự can thiệp, xem xét rõ ràng các trường hợp giá trị trao đổi (giá cả) khác với giá trị thực tế (tiện ích biên).

– Cố gắng cung cấp một giải pháp cho nghịch lý của tài sản tư nhân và tối đa hóa tiện ích.

– Ngày nay vẫn còn phù hợp, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế vi mô tiêu dùng .

5. Tương phản giá trị

Lý do tương phản giữa giá trị và hiệu dụng được Wieser trình bày rõ ràng: “Trong mỗi tính hiệu dụng kinh tế cá nhân độc lập là nguyên tắc cao nhất, nhưng trong thế giới kinh doanh, bất cứ khi nào cung cấp của xã hội bằng hàng hóa nằm trong tay các nhà doanh nghiệp, những người mong muốn kiếm lợi nhuận từ hàng hóa, và muốn được trả công cho dịch vụ của mình, giá trị trao đổi sẽ diễn ra. Nhà doanh nghiệp tư nhân không quan tâm đến việc cung cấp hiệu dụng cao nhất đối với xã hội nói chung, mục đích của anh ta đúng ra là đạt đến giá trị cao nhất cho chính bản thân mình – đồng thời cũng là hiệu dụng cao nhất. Hiệu dụng tự thân chứng tỏ như nguyên tắc thứ nhất trong nền kinh tế doanh nghiệp, nhưng, chính vì điều này, trong mâu thuẫn giữa giá trị trao đổi và hiệu dụng xã hội, đây là giá trị trao đổi giành chiến thắng – ít ra trong chừng mực nhà doanh nghiệp có khả năng hành động theo quyền lợi của riêng mình”. (Natural Value, trang 55).

Dĩ nhiên Wieser mô tả những tác dụng có hại của độc quyền đối với hiệu dụng xã hội. Sự tương phản chỉ ở chừng mực khi nhà doanh nghiệp có

khả năng kinh tế. Trong cạnh tranh tự do, như Dupuit mô tả trước đây, hiệu dụng xã hội sẽ được tôi đa hóa, và không có sự tương phản giữa giá trị và hiệu dụng. Thực ra, Wieser kết luận rằng “lịch sử kinh tế trong thời đại của chính chúng ta rất phong phú về ví dụ chứng minh rằng sự cạnh tranh có thể ép giá giá trị trao đổi xuống thấp”.

Nhưng những trường hợp ấy là gì khi sự cạnh tranh không chiếm ưu thế? Mặc dù ông nghĩ những trường hợp này là quá ít không thể biện minh cho một tổ chức kinh tế xã hội, Wieser ủng hộ sự can thiệp “có chọn lọc” của chính phủ, chúng ta sẽ chứng kiến khi đề cập đến tác phẩm sau này của ông, Social Economics. Tuy nhiên Wieser lưu ý sự đổ vỡ nghiêm trọng trong các sử dụng giá trị trao đổi trong nền kinh tế thực. Trong một nền kinh tế lý tưởng, độc lập, giá trị sử dụng phụ thuộc vào hiệu dụng, và hàng hóa sản xuất ra theo cấp giá trị của chúng. Giá trị trao đổi trong trường hợp này là phương tiện thủ đắc cá nhân.

Trong một nền kinh tế thực, giá trị trao đổi lệ thuộc không những vào hiệu dụng mà còn ở sức mua. Trong một thế giới như thế, sản xuất được xác định không chỉ bằng “nhu cầu đơn giản” mà còn bằng những phương tiện cấp cao của một bộ phận dân chúng. Hiểu biết những ngụ ý nền tảng trong việc áp dụng lý thuyết hiệu dụng vào một nền kinh tế thực, Wieser lưu ý:

“Thay vì vật lẽ ra có hiệu dụng cao nhất, những vật ấy được sản xuất ra để được trả giá cao nhất. Sự khác biệt về của cải càng lớn, thì độ dị thường trong sản xuất càng nổi bật, sẽ cung cấp hàng xa xỉ dành cho người phóng đãng và kẻ háu ăn, trong khi làm ngơ trước nhu cầu của người cùng khổ. Vì thế chính sự phân phối của cải sẽ quyết định nên bố trí sản xuất ra sao, và mang lại sự tiêu dùng của loại hàng phi kinh tế nhất: sự tiêu dùng lãng phí trong việc thụ hưởng không cần thiết và đáng khiển trách những gì mà lẽ ra được dùng để hàn gắn vết thương của cảnh bần hàn” (Natural Value, trang 58).

Sự khác biệt trong sức mua giữa những người có yêu cầu dẫn đến sự dị thường khác. Giá một số’ hàng hóa, như bánh mì chẳng hạn, được quyết định bằng cách đánh giá của những người có sức mua yếu nhất, thường là người nghèo nhất. Người giàu, trái lại, không phải bỏ ra giá cầu cao nhất để mua bánh mì, nhưng chỉ giá cả ấy được quyết định bởi cách đánh giá của người có sức mua yếu nhất. Wieser khẳng định, “Chỉ nơi nào người giàu cạnh tranh với nhau để mua hàng xa xỉ… họ trả theo khả năng của riêng mình và được đánh giá theo tiêu chuẩn riêng của cá nhân họ”. Giá thế giới thực nói cách khác thông thường không phản ánh cách đánh giá hiệu dụng biên tế đang tồn tại nếu hiệu dụng biên tế của sức mua giông như tất cả các cá nhân có nhu cầu khác (tình trạng như thế không cần sự bình đẳng trong phân phối thu nhập).

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)