Có hoạt động giám sát việc giám hộ này thì bản thân người giám hộ sẽ cũng nâng cao ý thức trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch vì lợi ích của người được giám hộ. Hơn nữa, khi có những giao dịch, đặc biệt giao dịch ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản cùa người giám hộ thì có giám sát giám hộ sẽ đảm bảo những giao dịch được thực hiện thận trọng, không ảnh hưởng đến khối tài sản của người được giám hộ.

1. Lựa chọn người giám sát việc giám hộ

Người giám sát việc giám hộ này có thể là cá nhân hoặc pháp nhân và được lựa chọn bởi các nhóm chủ thể và theo các bước sau:

Người giám sát việc giám hộ do chính người thân thích của người được giám hộ lựa chọn. Người thân thích của người được giám hộ bao gồm vợ, chồng, cha, mẹ, con của người được giám hộ. Nếu không có những người nêu trên thì sẽ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám hộ. Nếu không có những người nêu trên thì người thân thích tiếp theo được xác định là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người được giám hộ. Trường hợp đều không có người thân thích nêu trên thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người giám hộ cư trú sẽ cử người giám sát việc giám hộ.

Những người thân thích sẽ thoả thuận và cử ra người giám hộ. Tuy nhiên, pháp luật không quy định hình thức thoả thuận cử người giám sát việc giám hộ bắt buộc theo một hình thức nhất định nên hình thức sẽ do những người thân thích lựa chọn.

Người giám sát việc giám hộ bắt buộc phải được đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ nếu như việc giám sát việc giám hộ này liên quan đến quản lý tài sản của người được giám hộ. Điều này có thể hiểu, nếu người được giám hộ có tài sản riêng thuộc sở hữu của mình thì về cơ bản người giám sát việc giám hộ sẽ phải đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp xã theo yêu cầu.

Nếu phát sinh tranh chấp về lựa chọn người giám sát việc giám hộ thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về Toà án nơi người giám hộ đang cư trú.

2. Điều kiện dành cho người giám sát việc giám hộ

Trường hợp người giám sát việc giám hộ là cá nhân thì cá nhân này phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có điều kiện cần thiết, phù hợp để thực hiện việc giám sát của mình. Trường họp người giám sát việc giám hộ là pháp nhân thì pháp nhân này có năng lực pháp luật phù hợp với việc giám sát việc giám hộ và cũng phải có điều kiện cần thiết, phù hợp để thực hiện việc giám sát. Cá nhân hoặc pháp nhân được lựa chọn là người giám sát việc giám hộ phải đồng ý với sự lựa chọn này thì mới trở thành người giám sát việc giám hộ.

3. Quyền và nghĩa vụ của người giám sát việc giám hộ

Tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận cụ thể các quyền, nghĩa vụ của người giám sát việc giám hộ, bao gồm:

Thứ nhất, người giám sát việc giám hộ sẽ theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ. Người này có quyền được cung cấp thông tin, nắm bắt quá trình thực hiện các giao dịch liên quan đến người được giám hộ. Đồng thời, trong hoạt động hàng ngày như chăm sóc cho người được giám hộ thì người giám sát cũng có quyền kiểm tra, được cung cấp thông tin có liên quan.

Thứ hai, người giám sát việc giám hộ có quyền xem xét, có ý kiến kịp thời bằng vãn bản về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự quy định tại Điều 59 của Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến tài sản của người được giám hộ. Trong trường hợp, người giám sát việc giám hộ thể hiện sự không đồng ý với những giao dịch mà pháp luật yêu cầu phải có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ thì giao dịch này sẽ không có hiệu lực.

Thứ ba, người giám sát việc giám hộ có quyền yêu cầu xem xét việc thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ hoặc thay đổi chính người giám sát việc giám hộ tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người giám hộ cư trú.

4. Quản lý tài sản của người được giám hộ

Đối với ba đối tượng cần được giám hộ gồm người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì riêng với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc quản lý tài sản của người này sẽ dựa vào phạm vi mà Toà án xác định nằm trong nội dung của bản tuyên bố cá nhân này rơi vào tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Còn đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, việc quản lý tài sản của người này được thực hiện theo nguyên tắc sau:

Thứ nhất, nguyên tắc chung của hoạt động quản lý tài sản của người được giám hộ là quản lý như tài sản của chính người giám hộ và mọi giao dịch đều phải đảm bảo lợi ích cho người được giám hộ. Quản lý tài sản như chính tài sản của mình tức là người giám hộ phải luôn ý thức trong việc sử dụng hiệu quả, bảo toàn khối tài sản và gia tăng khối tài sản nếu có điều kiện phù hợp. Mọi giao dịch liên quan đến tài sản đều phải vì lợi ích của người được giám hộ tức là phải phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt thiết yếu, chữa bệnh… cho người được giám hộ.

Thứ hai, việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ thì phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Với trường hợp này cần lưu ý hai điểm: Một, tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ hiện nay không có quy định cụ thể nên nó được xét ở hai khía cạnh. Khía cạnh đầu tiên là giá trị tài sản này trong khối tài sản của người được giám hộ và khía cạnh thứ hai là giá trị tài sản so với mặt bằng chung của xã hội. Việc xác định giá trị tài sản lớn hoàn toàn được xem xét trong từng trường họp cụ thể, không thể dùng một tiêu chí duy nhất để đưa ra kết luận; Hai, người giám sát việc giám hộ đồng ý có thể thể hiện thông qua một văn bản cụ thể hoặc việc không phản đối đối với giao dịch liên quan đến tài sản người được giám hộ. Khi người giám sát việc giám hộ không đồng ý có thể có ý kiến bằng văn bản và gửi đến chính quyền địa phương nơi có thẩm quyền.

Thứ ba, người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác trong mọi trường hợp. Quy định này cho thấy, nhà làm luật không đồng tình và nhận thấy giao dịch tặng cho tài sản của người giám hộ liên quan đến tài sản của người được giám hộ không đem lại bất kỳ lợi ích nào cho người được giám hộ. Chính vì vậy, giao dịch này luôn luôn không có hiệu lực pháp luật.

Thứ tư, giao dịch giữa người giám hộ với người được giám hộ liên quan đến tài sản của người được giám hộ luôn vô hiệu trừ trường họp người giám sát việc giám hộ đồng ý và được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ. Như vậy, để giao dịch giữa người giám hộ với người được giám hộ về tài sản của người được giám hộ có hiệu lực thì phải thoả mãn đồng thời hai yêu cầu: được sự đồng ý của giám sát giám hộ và hoàn toàn vì lợi ích của người được giám hộ. Quy định pháp luật này hoàn toàn hợp lý vì bản chất giao dịch này hoàn toàn chỉ có ý chí của người giám hộ vì họ tham gia với tư cách chính minh và tư cách là người đại diện cho người giám hộ. Chính vì thế pháp luật có những quy định chặt chẽ hơn với nhóm giao dịch này.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)