1. Khi nào giao dịch vô hiệu?
Theo Điều 122 Bộ luật dân sự 2015:
Điều 122. Giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.
Viện dẫn đến Điều 117 Bộ luật dân sự 2015, ta có:
Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Như vậy, giao dịch được xác lập, nhưng giao dịch có thể bị tuyên vô hiệu vì giao dịch không thực hiện theo các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự và về hình thức của giao dịch nếu pháp luật có quy định hình thức bắt buộc của một giao dịch nào đó thì hình thức này là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
Tuy nhiên, có trường hợp dù không đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nhưng pháp luật vẫn cói đó là giao dịch có hiệu lực. Cụ thể theo khoản 2 Điều 125 Bộ luật dân sự 2015:
2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:
a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch vô hiệu từng phần là gì?
Theo Điều 130 Bộ luật dân sự 2015:
Điều 130. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.
Giao dịch vô hiệu từng phần thông thường là giao dịch có đối tượng gồm nhiều vật khác nhau hoặc có nhóm các công việc khác nhau, mà chủ thể của giao dịch bị nhầm lẫn hoặc chủ thể không có quyền định đoạt đối với một vật cụ thể (vật đó không thuộc quyền sở hữu của chủ thể hoặc vật đó thuộc quyền sở hữu chung mà không có sự thỏa thuận với đồng sở hữu chung hoặc đối tượng của giao dịch là công việc nhưng một hoặc các bên bị nhầm lẫn) thì chỉ phần giao dịch liên quan đến các đối tượng này bị vô hiệu, còn các phần khác của giao dịch vẫn có hiệu lực.
3. Hậu quả pháp lí của giao dịch vô hiệu
Các căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 122 đến Điều 129 và giao dịch vô hiệu từng phần được quy định tại Điều 130 Bộ luật dân sự. Khi một giao dịch bị tuyên là vô hiệu, thì giao dịch này không thể làm phát sinh hiệu lực.
Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định về hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
+ Về thời điểm vô hiệu của giao dịch: Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
+ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Về nguyên tắc, đối tượng của giao dịch là vật, thì khi giao dịch vô hiệu bên nhận vật có nghĩa vụ hoàn trả lại vật (hoàn nguyên) mà mình đã nhận cho bên có quyền. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Giá của hiện vật được xác định vào thời điểm xét xử sơ thẩm. Hoàn trả tiền trong trường hợp này tương tự như bồi thường thiệt hại về tài sản (vật là đối tượng của giao dịch không còn).
+ Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức đó. Giao dịch có các đối tượng là động sản pháp luật không quy định phải đăng ký quyền sở hữu, mà bên thuê, bên mượn, bên mua tài sản này từ bên cho thuê, cho mượn, bên bán…, sau đó giao dịch bị tuyên vô hiệu, thì bên mua, bên thuê, bên mượn động sản không có nghĩa vụ trả lại hoa lợi, lợi tức thu được do khai thác tài sản.
+ Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Bên có lỗi trong quan hệ giao dịch như lừa dối, đe dọa, cưỡng ép người khác tham gia giao dịch, khi giao dịch bị tuyên vô hiệu, bên bị tham gia giao dịch trái ý chí tự nguyện bị thiệt hại, thì bên có hành vi lừa dối, đe dọa, cưỡng ép phải bồi thường.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 thì việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định. Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, quyền của người biểu diễn được pháp luật bảo hộ, nhưng một người lừa dối, dọa nạt để người biểu diễn tham gia giao dịch biểu diễn, giao dịch bị tuyên vô hiệu, thì quyền nhân thân của người biểu diễn bị xâm phạm được bồi thường theo trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
4. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được hiểu là một khoảng thời gian do pháp luật quy định và khi kết thúc thời hạn của thời hiệu này thì quyền yêu cầu của chủ thể bị triệt tiêu.
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 132 Bộ luật dân sự 2015:
Điều 132. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:
a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.
2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.
3. Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
Như vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm được áp dụng đối với những giao dịch sau đây:
– Giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.
– Giao dịch dân sự do bị nhầm lẫn;
– Giao dịch dân sự do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép mà xác lập;
– Giao dịch dân sự do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình;
– Giao dịch dân sự do không tuân thủ hình thức.
Giao dịch dân sự vi phạm một trong năm trường hợp xác định trên đây có thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu là 02 năm kể từ ngày biết hoặc phải được về những hành vi vi phạm trong việc xác lập giao dịch. Hết thời hạn 02 năm kể từ ngày biết hoặc buộc phải biết có hành vi phạm trong việc xác lập giao dịch dân sự, mà bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của bên có quyền bị xâm phạm, mà không yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì mất quyền khởi kiện.
Hết thời hiệu 2 năm mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực. Đối với các giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội và giao dịch được xác lập do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
5. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Điều 133 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.
2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
3. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Như vậy, việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch phải căn cứ vào đối tượng của giao dịch, cũng như nguồn gốc có được tài sản. Trong trường hợp nếu người thứ ba này được xác định là không ngay tình thì chủ sở hữu có quyền được đòi lại tài sản của mình.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191 hoặc gửi qua Email : Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.
Trân trọng./.