Thưa Luật sư của LVN Group, tôi là Định, sống ở Điện Biên, vừa qua tôi có cho một người bạn vay tiền, người này thì kinh tế khá khó khăn. Khi tôi cho vay ai cũng can tôi là họ sẽ không trả được nên chớ cho vay kẻo tiền mất mà ức chết. Nhiều người thì bảo đã lỡ cho vay rồi thì giờ muốn an tâm thì đi Công chứng giấy vay đi. Tôi không hiểu về vấn đề này. Mong được Luật sư của LVN Group tư vấn giúp. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: Nông Định – Điện Biên

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900.0191

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật của Công ty Luật LVN Group. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của LVN Group của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

– Luật công chứng năm 2014

– Luật nhà ở năm 2014.

2. Lời dẫn

Nhiều Người khi tham gia giao dịch dân sự, thường yêu cầu Công chứng viên, chứng nhận cho giao dịch của mình, với một niềm tin cố hữu: “Có Công chứng viên, chứng nhận là yên tâm rồi, chạy đằng trời cũng không thoát được”.

Tuy nhiên, thực tế những hệ quả pháp lý xảy ra của công đoạn “Hậu công chứng”, cho thấy rằng quan điểm trên là một sai lầm. Bài viết này, Luật LVN Group sẽ luận giải bản chất pháp lý của văn bản có công chứng để quý vị có thể hiểu hơn về vai trò của Văn bản công chứng, trong sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các Bên.

3. Bản chất của văn bản có Công chứng

Văn bản Công chứng là văn bản do Công chứng viên thuộc Văn phòng/Phòng công chứng lập theo yêu cầu của khách hàng nhằm chứng nhận cho giao dịch dân sự của các bên là hợp pháp.

Theo đó, văn bản Công chứng ghi nhận 2 vấn đề:

+ Có tồn tại giao dịch dân sự, ví dụ mua bán nhà, vay tiền ….;

+ Giao dịch mà các bên đã thiết lập là đáp ứng đầy đủ các điều kiện của pháp luật.

Tuy nhiên, chúng ta cần phải xác định rằng, hợp đồng, giao dịch có Công chứng (Hợp đồng mua bán tài sản, vay tài sản có Công chứng…) thì việc có Công chứng ở đây chỉ là một trong những hình thức biểu hiện, biểu đạt của Hợp đồng giao dịch đó.

Pháp luật quy định các loại hình thức của Hợp đồng giao dịch, gồm: Bằng lời nói, bằng văn bản thường, bằng văn bản có Công chứng, chứng thực …. Và khi pháp luật không bắt buộc hợp đồng, giao dịch không cần phải Công chứng hay chứng thực, thì các bên có thể giao kết dưới bất kỳ hình thức nào.

4. Hợp đồng chỉ là sự hẹn ước

Một Hợp đồng dù có công chứng hay không chỉ là biểu hiện về mặt hình thức của giao dịch. Nếu đó là giao dịch có công chứng, chỉ có thể khẳng định rằng các bên có tham gia giao dịch, và giao dịch đó hợp pháp, không bên nào có thể phủ nhận được. Nhưng nó hoàn toàn không có một chút ý nghĩa nào trong việc bảo đảm cho bên có quyền rằng: Bên có nghĩa vụ sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Vì việc các bên có thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình hay không, đó chỉ là một khả năng trong tương lai mà không ai chắc chắn cho điều đó.

Ví dụ 1: Ông A cho Ông B vay 500 triệu, lãi suất 1%/Tháng, thời hạn vay 6 tháng. Trong trường hợp này, dù là Hợp đồng có công chứng hay chỉ là bằng giấy tay, đều có giá trị pháp lý. Có chăng, nếu là bằng giấy tay, thì một bên có thể nói mình không ký Hợp đồng đó, việc chứng minh sẽ vất vả hơn. Tuy nhiên, dù là Hợp đồng có công chứng hay chỉ bằng giấy tay, trong trường hợp này, không hề có vai trò gì, trong việc bảo đảm rằng: Ông B sẽ trả nợ cho Ông A. Cụ thể là, khi đến hạn trả lãi, hay đến hạn trả nợ gốc, nếu Ông B không muốn, không thích hoặc không có khả năng trả nợ cho Ông A, thì hệ quả đều như nhau, dù trước đó các bên ký Hợp đồng công chứng hay giấy tay. Do đó, Ông A muốn đòi lại tiền, thì phải khởi kiện ra Tòa án, khi thắng án, phải yêu cầu Chi cục Thi hành án, tiến hành xác minh xem Ông B còn tài sản không, để cưỡng chế Thi hành án … cho nên bài học rút ra đó là khi cho ai đó vay tiền, hãy đánh giá khả năng trả nợ, uy tín của họ, mà không phải là dựa vào văn bản có công chứng hay không!

5. Hình thức hợp đồng vô nghĩa trong nhiều trường hợp

Trừ hợp đồng tặng cho tài sản, tất cả các loại hợp đồng còn lại đều là hợp đồng song vụ. Nghĩa là hai bên đều có nghĩa vụ với nhau. Nhưng trong hợp đồng song vụ, lại có thể phân ra song vụ đồng thời và song vụ không đồng thời.

– Song vụ đồng thời: nghĩa là hai bên thực hiện nghĩa vụ trong cùng gần như một lúc. trong trường hợp này, chỉ cần các bên thống nhất bằng miệng là xong, trừ khi pháp luật yêu cầu giao dịch này phải bằng Văn bản hoặc có công chứng.

Ví dụ 2: Ông C ra tiệm vàng mua 1 lượng vàng SJC có giá khoảng 40 triệu đồng, Ông A nhận vàng, và thanh toán tiền, mọi thứ diễn ra nhanh gọn, không cần văn bản, cũng không cần công chứng. Ai cũng yên tâm, vì mọi nghĩa vụ đã hoàn thành. Hình thức Hợp đồng vô giá trị trong trường hợp này.

– Song vụ không đồng thời, nghĩa rằng trong hợp đồng này, một bên phải thực hiện nghĩa vụ trước, bên còn lại chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình, trên cơ sở bên kia đã thực hiện nghĩa vụ của họ. Trong trường hợp này, bên thực hiện nghĩa vụ trước, phải gánh chịu rủi ro pháp lý, khi bên còn lại vi phạm nghĩa vụ của mình, bất kể hợp đồng các bên ký kết bằng văn bản có công chứng hay không.

Ví dụ 3: Ông A ký hợp đồng cho ông B vay tiền, có lãi suất, có thời hạn trả nợ gốc. Đây là hợp đồng song vụ không đồng thời: ông B chỉ có nghĩa vụ trả lãi, nợ gốc cho ông A một thời gian sau đó, khi ông A đã giao tiền vay cho ông B (Nếu ông A không giao tiền, thì không phát sinh nghĩa vụ trả nợ lãi và gốc của ông B). Như vậy, nếu ông A đã giao tiền vay cho ông B, ông A phải gánh chịu một rủi ro pháp lý, đó là khi đến hạn: Không biết ông B có trả nợ, lãi đúng và đủ cho ông A không? Luận giải như vậy để thấy trong trường hợp này có giấy vay tiền viết tay hay được công chứng hay không cũng đều không có giá trị bảo đảm gì.

6. Bảo đảm thực hiện hợp đồng không phải bằng Văn bản công chứng

Tiếp tục từ ví dụ trên, khi đến hạn trả nợ, ông B không trả, ông A sẽ gánh chịu rủi ro pháp lý nếu ông B không có khả năng thanh toán. Ông A có thể mất trắng, dù cầm Hợp đồng công chứng trong tay. Như vậy, chúng ta có cơ sở để kết luận rằng: Hình thức hợp đồng (Bằng miệng, giấy tay, công chứng) hầu như không có ý nghĩa trong việc bảo đảm quyền lợi của bên có quyền, khi bên có nghĩa vụ vi phạm.

Vậy hạn chế rủi ro, bảo đảm quyền lợi bằng cách nào? Tiếp tục từ ví dụ trên: Khi đến hạn trả nợ, nếu ông B không trả, ông A sẽ yên tâm nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng vay ông B có thế chấp cho ông A căn nhà của mình, bây giờ nếu ông B không trả nợ, thì yêu cầu phát mại tài sản để trả nợ. Đó chính là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.

Pháp luật quy định về nhiều biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, như: Đặt cọc, ký quỹ, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, cầm giữ tài sản …… Tùy vào từng trường hợp cụ thể, khi giao kết Hợp đồng, có thể chọn một biện pháp bảo đảm tương ứng, nhằm hạn chế rủi ro pháp lý, thay vì chỉ lựa chọn công chứng.

7. Trách nhiệm bồi thường của Công chứng viên

Không phải rủi ro pháp lý nào xảy ra, đối với giao dịch có Công chứng, cũng đều có trách nhiệm của Công chứng viên. Qua những ví dụ trên, cho thấy rằng Công chứng viên không hề có trách nhiệm gì, đối với việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các bên dù giao dịch đó có công chứng.

Ví dụ 4: Mua nhà, nhưng nhà bị dột nước, không phải trách nhiệm của Công chứng viên; Mua xe hơi, khi sử dụng bị lỗi máy móc, không phải lỗi của Công chứng viên; Vay tiền không trả, không liên quan đến công chứng viên…. nghĩa là không thể buộc Công chứng viên chịu trách nhiệm với việc đã công chứng của mình.

Tuy nhiên, nói như vậy, không có nghĩa là Công chứng viên, không có bất kỳ trách nhiệm gì, vì nếu vậy, chẳng ai đi công chứng. Công chứng viên sẽ phải chịu trách nhiệm, liên đới bồi thường khi mà Công chứng viên có lỗi trong việc xác định sai những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật (không phải vì bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng).

Ví dụ 5: Vợ Chồng A B là đồng sở hữu chung Nhà đất, nhưng khi Bà B cầm giấy tờ Nhà đất đi bán cho Ông C, Bà B khai với công chứng viên là bà độc thân, nhưng Công chứng viên không yêu cầu chứng minh pháp lý, như không yêu cầu giấy chứng nhận độc thân….. Dẫn đến sau khi chứng nhận Hợp đồng, thì Ông A khiếu kiện, vì bán nhà, đất mà không nói với Ông; Khi giải quyết vụ án, trong trường hợp Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng, dẫn đến (Nếu có) thiệt hại cho người mua, thì công chứng viên phải liên đới bồi thường, vì đã có lỗi khi xác định không đầy đủ tư cách chủ thể bán nhà, đất.

Từ những luận giải trên đây cho thấy Công chứng chỉ là một hình thức biểu hiện bên ngoài của giao dịch dân sự, nó có giá trị trong việc chứng nhận giao dịch của các bên là đáp ứng đầy đủ các điều kiện của pháp luật, và đó là một giao dịch hợp pháp. Nhưng nó không hề có giá trị, trong việc bảo đảm cho bên có quyền rằng: Bên có nghĩa vụ sẽ thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ của mình. Bên có nghĩa vụ, có thực hiện đúng nghĩa vụ của mình không, đó chỉ là một hẹn ước phụ thuộc vào khả năng trong tương lai và không hề phụ thuộc vào việc giao dịch đó có công chứng hay không. Mà nó phụ thuộc vào: Khả năng thực hiện nghĩa vụ, tính thiện chí, uy tín của bên có nghĩa vụ, chế tài nếu vi phạm nghĩa vụ, biện pháp bảo đảm nghĩa vụ (nếu có).

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group – Sưu tầm & biên tập