Mặc dù thế kỷ XX đã trải qua hai cuộc chiến tranh thế giói với những hậu quả nặng nề, tác động đến hầu hết các quốc gia nhưng hơn bao giờ hết, cộng đồng quốc tế vẫn đã và đang cố gắng phối hợp hành động để duy trì sự tồn tại và phát triển nền văn minh nhân loại trong một hệ thống quốc tế ổn định.

Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX đến nay, sự gia tăng của các cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, cùng các hoạt động lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi, với tính chất phức tạp, tạo ra nhiều khu vực nhạy cảm đối với khả năng duy trì một trật tự pháp lý quốc tế có sự bình Ổn của các quan hệ quốc tế. Nguy hiểm hơn nữa, sự xuất hiện vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học và mọi phương tiện chiến tranh hiện đại khác càng đặt cộng đồng quốc tế trước nhiều mối lo ngại chung, trong đó lo ngại nhất là nguy cơ đe doạ huỷ diệt sự tồn tại của thế giói hiện hành.

Bối cảnh quốc tế ngày nay đòi hỏi các quốc gia phải cùng hợp tác và đấu tranh, nhằm chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang, bảo vệ hoà bình cho thế giới, giữ gìn ngôi nhà chung của toàn nhân loại. Nếu như trước đây các quốc gia có thể tự mình bảo đảm an ninh hoặc trông cậy vào sự giúp đỡ hạn chế của một vài đồng minh thì ngày nay khả năng tự giải quyết một cách đon phương ấy đã trở lên khó khăn trong môi trường thế giới ngày càng gia tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Điều kiện phát triển và tương quan cùa các mối quan hệ quốc tế hiện hành đòi hỏi phải có những biện pháp và cơ chế pháp lý quốc tế cần thiết, trong đó tồn tại hệ thống an ninh tập thể vừa có tính khu vực, vừa có tính toàn cầu, với việc sử dụng hiệu quả các biện pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp và xung đột quốc tế, kết hợp thực hiện liên tục các biện pháp giải trừ quân bị và củng cố lòng tin bằng nhiều hoạt động cụ thể để giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế.

1. Luật điều chỉnh hoạt động giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế

Hoà bình và an ninh quốc tế chỉ có thể được bảo đảm bằng các biện pháp và phương tiện khác nhau, trong đó pháp luật được coi là phương tiện hữu hiệu nhất. Luật điều chỉnh các hoạt động giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế chủ yếu bao gồm các điều ước quốc tế toàn cầu, khu vực, đa phương và song phương, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến lĩnh vực này.

Hiến chương Liên hợp quốc là điều ước quốc tế phổ cập có vai trò quan trọng nhất, đặt cơ sở nền tảng cho toàn bô hê thống luật quốc tế nói chung, cho giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế nói riêng. Ngay trong lời nói đầu, Hiến chương đã khẳng định quyết tâm của các nước thành viên Liên hợp quốc là “Phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm hoạ chiến tranh đã hai lần xảy ra trong đời chúng ta, gây cho nhân loại đau thương không kể xiết”.

Ở phạm vi toàn cầu, ngoài Hiến chương Liên hợp quốc còn có các điều ước quốc tế trong lĩnh vực giải trừ quân bị, như:

– Công ước về cấm nghiên cứu, sản xuất, tàng trữ vũ khí vi trùng, vũ khí độc hại và phá huỷ chúng, năm 1972, có hiệu lực ngày 26-3-1975 (Việt Nam tham gia năm 1980);

– Công ước về cấm nghiên cứu, sản xuất, tàng trữ, sử dụng vũ khí hoá học và phá huỷ chúng, năm 1993, có hiệu lực ngày 29-4-1997 (Việt Nam tham gia năm 1998);

– Hiệp ước về cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, trong vũ trụ và dưới nước, năm 1963;

– Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân, năm 1968, có 187 nước thành viên (Việt Nam tham gia từ 1982);

– Hiệp ước về cấm đặt vũ khí hạt nhân và các vũ khí giết người hàng loạt ở đáy biển, đáy đại dương, năm 1971, (Việt Nam tham gia năm 1980).

Ở phạm vi khu vực, có điều ước quốc tế của các tổ chức quốc tế khu vực về an ninh, giải trừ quân bị, về các biện pháp củng cố lòng tin và thiết lập các khu vực phi hạt nhân :

– Hiệp ước về cấm vũ khí nguyên tử ở châu Mỹ Latinh, năm 1967;

– Hiệp ước về khu vực phi hạt nhân Nam Thái Bình Dương, năm 1985;

– Hiệp ước về Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân, năm 1995, (Việt Nam tham gia ngày 5-11-1996);

– Hiệp ước về châu Phi không có vũ khí hạt nhân, năm 1996;

– Trong khuôn khổ Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu, có Hiệp ước về lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu, năm 1990.

Trong quan hệ song phương, có các điều ước quốc tế về hoà bình vấ hữu nghị, được ký kết giữa các quốc gia láng giềng hoặc giữa các quốc gia, tuy ở cách xa nhau về địa lý nhưng là hạn bè và đối tác tin cậy của nhau. Ngoài ra, còn có các điều ửởc quốc tế có ý nghĩa quan trọng của quá trình giải trừ quân bị, được ký kết giũa các cường quốc quân sự hàng đầu thế giới (ví dụ, Hiệp ước Nga – Mỹ về tiếp tục giảm và hạn chế vũ khí tiến công chiến lược, năm 1993).

Ngoài các điều ước quốc tế song phương và đa phương, toàn cầu và khu vực, trực tiếp điều chỉnh các vấn đề về giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế, các nghị quyết quan trọng cùa Liên hợp quốc, mang tính khuyên nghị cũng được coi là phương tiên bổ trợ nguồn trong lĩnh vực này. Trong số đó phải kể đến các nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc, như Nghị quyết ngày 5-12-1986 “Về thiết lập hệ thống hoà bình và an ninh toàn cầu”-, Nghị quyết ngày 7-12-1988 “Quan điểm tổng thể về củng cố cố hoà bình và an ninh quốc tê’ phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc”. Nội dung cơ bản của các nghị quyết này là sự cần thiết phải thiết lập hệ thống quan hê quốc tế với tổ chức bộ máy cọ đầy đủ khả năng bảo đảm cho một thế giới không có chiến tranh, hoà bình và an ninh bền vững.

2. Các nguyên tắc trong giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế

Để giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế, mỗi quốc gia trước hết phải triệt để tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại, nhất là các nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực; Hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế; Không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Ngoài các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, lĩnh vực giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế còn có các nguyên tắc đặc thù riêng như nguyên tắc an ninh không chia cắt, nguyên tắc ân ninh bình đẳng,…

2.1 Nguyên tắc “An ninh không chia cắt”

Trong thế giới đương đại, các quốc gia đều tồri tại trong mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau. Tồn tại ưong xu thế ngày càng gia tãng sự tùy thuộc giữa các quốc gia là một đặc điểm có tính thời đại, tác động đến quá trình phát triển của các quốc gia trong điều kiện toàn cầu hoá, thông qua sự liên kết của kinh tế tri thức và thống nhất thị trường thế giới.

Tiếp cận với các quan hệ quốc tế từ góc độ này, yêu cầu của thế giới không chia cắt đòi hỏi phải có một nền an ninh chung, theo đó, an ninh cùa mỗi quốc gia ngày nay đều phụ thuộc vào an ninh của mọi quốc gia. An ninh quốc tế hiện nay xuất phát từ quan điểm đúng đắn rằng, không thể xây dựng an ninh của một nhóm quốc gia hay cùa một quốc gia mà bỏ qua an ninh của các quốc gia khác và của cả cộng đồng quốc tế. Điều này không dẫn đến loại bỏ nhu cầu bảo đảm an ninh của một quốc gia, vì mỗi quốc gia luôn là thực thể độc lập, có chủ quyền, nên đều có quyền thiết lập nền an ninh riêng biệt của mình. Nền an ninh riêng của mỗi quốc gia có liên quan trực tiếp đến một vấn đề rất quan trọng, đó là vấn đề thực hiện quyền tự vệ hợp pháp của quốc gia. Phạm vi của việc thực hiện quyền tự vệ hợp pháp đã được giới hạn tại Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó khẳng định quyền của mỗi quốc gia được sử dụng lực lượng vũ trang để đánh trả hành vi xâm phạm hoà bình và an ninh của mình. Luật quốc tế hiện đại coi đây là một trong những biện pháp hợp pháp để bảo đảm an ninh quốc tế. Tuy nhiên, để bảo đảm an ninh chung cho toàn thế giới, an ninh của mỗi quốc gia cần được giữ ở mức độ cần thiết, phù hợp giữa an ninh riêng và ninh chung của cả cộng đồng quốc tế. Việc một quốc gia có quyền tự vệ hợp pháp nhưng phải tương xứng với mức độ tấn công từ phía đối phương và hoàn toàn có thể tiến hành theo hình thức đơn lẻ hoặc tập thể.

Ngoài ra, để tránh chạy đua vũ trang, mỗi quốc gia chỉ cần xây dựng lực lượng vũ trang và trang bị vũ khí ở mức độ vừa đủ, cần thiết cho phòng thủ đất nước.

2.2 Nguyên tắc “An ninh bình đẳng”

Để bảo đảm an ninh chung của cả cộng đồng quốc tế, các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng sự cân bằng về quân sự trong phạm vi khu vực và trên toàn thế giới. Hiến chương Liên hợp quốc xác định nghĩa vụ của các quốc gia là phải kiềm chế, không chạy đua vũ trang. Trong quan hệ song phương, quan hệ khu vực và toàn cầu, từng quốc gia phải luôn tính đến an ninh của các quốc gia khác. Mặt khác, an ninh của các quốc gia đều phải được bảo đảm như nhau, không một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào có quyền tìm mọi cách để tạo ra ưu thế về an ninh cho mình trước các quốc gia khác trong khu vực và trong cả Cộng đồng quốc tế.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)