Quan điểm pháp điển hóa trên cơ sở rà soát, tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật thành bộ pháp điển theo chủ đề chính là quan điểm pháp điển hóa hiện đại, theo cách thức pháp điển hóa hình thức phổ biến ở các nước trên thế giới.

Trên cơ sở quy định này, trong thời gian vừa qua một số nhóm chuyên gia đã tiến hành pháp điển hóa thử nghiệm Bộ pháp điển về Luật tổ chức Quốc hội (trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm pháp điển của nước Pháp) và Bộ pháp điển về sở hữu trí tuệ (trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm pháp điển hóa của Hoa Kỳ). Tuy nhiên, do là hoạt động thử nghiệm nên Bộ pháp điển này chỉ có giá trị tham khảo. Mặc dù chỉ có giá trị tham khảo, nhưng do được nghiên cứu, chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, với cách làm bài bản, hai bộ pháp điển có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển trong hoạt động pháp điển hóa của nước ta.

1. Bộ pháp điển về tổ chức và hoạt động của Quốc hội

Bộ pháp điển này được xây dựng và hoàn thành vào năm 2009. Đây là sản phẩm hợp tác giữa Văn phòng Quốc hội Việt Nam và Dự án hỗ trợ thể chế cho Việt Nam (ISP). Mục tiêu chính của việc xây dựng Bộ pháp điển này nhằm giúp thuận tiện cho việc tra cứu, sử dụng và có thể dễ dàng cập nhật, bổ sung các quy phạm pháp luật mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Bộ pháp điển thực hiện bằng kỹ thuật pháp điển hóa hiện đại, theo phương pháp pháp điển hình thức của Cộng hòa Pháp – là cách thức tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật thành bộ pháp điển theo chủ đề với những sửa đổi, điều chỉnh cần thiết về mặt kỹ thuật. Việc sửa đổi, điều chỉnh trong quá trình pháp điển chỉ nhằm mục đích làm cho các quy định này phù hợp với nhau và không làm thay đổi trật tự pháp lý của các quy định và cũng không tạo ra chính sách pháp luật mới.

Về phạm vi của Bộ pháp điển, do lựa chọn phương pháp pháp điển hóa hình thức của Pháp, nên về nguyên tắc, Bộ pháp điển bao gồm toàn bộ các quy phạm pháp định không tồn tại trong Bộ pháp điển. Tuy nhiên, thực tế bước này chưa được thực hiện và Bộ pháp điển mới chỉ dừng lại ở mức độ của một bản dự thảo.

Cấu trúc: Bộ pháp điển được xây dựng tương tự như câu trúc của một đạo luật, gồm: phần, chương, mục, điều, khoản, điểm. Tuy nhiên, với mục đích tạo ra không gian rộng rãi hơn cho việc thiết kế cấu trúc của Bộ pháp điển, trong Bộ pháp điển đã bổ sung thêm một đơn vị bố cục là “Tiêu mục”.

Bố cục: Bộ pháp điển được xây dựng trên cơ sở bám theo bố cục của đạo luật cơ bản về tổ chức và hoạt động của Quốc hội là Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2007 và đi theo logic các chủ thể tương đối độc lập. Cụ thể, Bộ pháp điển được bố cục gồm 8 phần: Những quy định chung; Hoạt động của Quốc hội; Kỳ họp Quốc hội; Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội; ủy ban thường vụ Quốc hội; Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội; đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, bộ máy giúp việc và kinh phí hoạt động.

Cách thức đánh số: Bộ pháp điển sử dụng phương pháp đánh số hỗn hợp, theo đó, các đơn vị bô’ cục sẽ được đánh số gắn bó với các cấp độ bô’ cục ở liền trên theo 3 cấp độ (không đánh số cấp độ Tiểu mục) kết hợp với ký hiệu viết tắt của cơ quan ban hành (ví dụ: QH – Quốc hội, UB – ủy ban thường vụ Quốc hội). Chẳng hạn, Điều UB. 776-2 sẽ cho biết thông tin đây là Điều 2 của Mục 6, Chương VII, Phần thứ bảy của Bộ pháp điển và quy định này do ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành. Cách đánh số này có chức năng như một mục lục, có tính thống tin hệ thống và có giá trị hỗ trợ cho việc tiếp cận các điều khoản của Bộ pháp điển một cách dễ dàng hơn.

Tham chiêu đế văn bản gốc. Trong Bộ pháp điển có phần Phụ lục tham chiếu giữa các điều khoản của Bộ pháp điển với điều khoản tương ứng trong văn bản gốc theo chiều xuôi và ngược. Mục đích của việc làm này là để tạo thuận lợi trong việc đối chiếu các quy định của văn bản gốc với các quy định của Bộ pháp điển và ngược lại.

2. Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ

Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ là sản phẩm hợp tác giữa Thường trực ủy ban pháp luật với Bộ Khoa học và Công nghệ và một số cơ quan, tổ chức có liên quan, bao gồm toàn bộ các quy định về sở hữu trí tuệ của Việt Nam tính đến ngày 31-7-2010. Bộ pháp điển được thực hiện theo phương pháp pháp điển hóa hình thức, theo kỹ thuật pháp điển hiện đại trên cơ sở kinh nghiệm của Hoa Kỳ, có tính đến đặc thù của hệ thống pháp luật Việt Nam. Cụ thể, các quy phạm pháp luật về lĩnh vực sở hữu trí tuệ đang được áp dụng sẽ được tập hợp, sắp xếp theo một trật tự nhất định với cấu trúc hợp lý.

Phạm vi của Bộ pháp điển: đã tập hợp toàn bộ các quy định có liên quan đến vấn đề sở hữu trí tuệ nằm trong tổng số 96 văn bản, trong đó có 4 bộ luật, 17 luật, 8 pháp lệnh, 28 nghị định, 2 chỉ thị, 22 thống tư và 15 quyết định.

Như vậy, ngoài các văn bản có nội dung chỉ quy định về sở hữu trí tuệ, các điều riêng lẻ trong các quy định chuyên ngành khác có liên quan đến vấn đề sở hữu trí tuệ, các văn bản đã hết hiệu lực nhưng trên thực tế vẫn có thể được sử dụng liên quan đến các đơn nộp trước ngày 01-7- 2006 cũng được tập hợp để đưa vào Bộ pháp điển nhằm bảo đảm Bộ pháp điển không bỏ sót quy định đang được áp dụng trên thực tế.

3. Quy trình xây dựng Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ

Về quy trình xây dựng, Bộ pháp điển này được thực hiện qua năm bước sau đây:

Bước 1: Tập hợp quy định. Mục tiêu của bước này là thu thập toàn bộ các quy định còn hiệu lực liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ được các cơ quan có thẩm quyền ban hành.

Bước 2: Rà soát và hợp nhất các quy định. Mục tiêu của bước này là loại bỏ các quy định đã hết hiệu lực. Trong giai đoạn này, các quy định sửa đổi, bổ sung sẽ được hợp nhất vào quy định gốc. Tuy nhiên, việc làm này không loại bỏ hoàn toàn các quy định đã ban hành trước đó cũng như không loại bỏ những mâu thuẫn, chồng chéo được phát hiện trong quá trình tập hợp, rà soát, mà được ghi chú lại để tiện cho các cơ quan có thẩm quyền và các đối tượng có liên quan biết trong quá trình sử dụng. Người làm pháp điển không có thẩm quyền và nhiệm vụ giải quyết các mâu thuẫn, chồng chéo này.

Bước 3: Ghép các quy định vào câu trúc thống nhất. Trên cơ sở kết quả rà soát, hợp nhất, các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ sẽ được đưa vào một cấu trúc được đánh số thống nhất. Hầu hết các văn bản đưa vào cấu trúc Bộ pháp điển cơ bản được giữ nguyên cấu trúc văn bản gốc, trừ các quy định trong văn bản hướng dẫn chung các điều của luật gốc sẽ được chia tách theo nội dung tương ứng với từng phần của luật gốc.

Bước 4: Chuẩn bị các văn bản để trình phê chuẩn Bộ pháp điển. Sau khi hoàn thành việc pháp điển hóa, cơ quan thực hiện pháp điển hóa sẽ chuẩn bị các văn bản để trình cấp có thẩm quyền ban hành quy định gốc (cụ thể là các bộ liên quan, Chính phủ, Quốc hội) xem xét, thông qua các phần tương ứng của Bộ pháp điển và xác nhận toàn bộ các quy định về sở hữu trí tuệ do mình ban hành đã được tập hợp đầy đủ vào Bộ pháp điển.

Bước 5: Thống qua các quy định đã được đưa vào Bộ pháp điển. Mục đích cuối cùng của bước này là công nhận giá trị sử dụng chính thức của Bộ pháp điển, sao cho mọi người đều dùng Bộ pháp điển như một nguồn tham khảo chính thức các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, thực tế bước này chưa được thực hiện và Bộ pháp điển mới chỉ dừng lại ở “Bản làm thử nghiệm chờ phê chuẩn”.

4. Cấu trúc của Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ

Cấu trúc: Bộ pháp điển được xây dựng theo câu trúc của Luật sở hữu trí tuệ, chia thành các phần tương đương với phần chính trong luật gốc. Các quy định liên quan được nêu rải rác trong các luật, văn bản khác sẽ được tập hợp thành một phần riêng nối tiếp các phần chính của luật gốc. Dưới mỗi phần là các quy định được sắp xếp theo cơ quan ban hành văn bản. Trong đó, thứ tự sắp xếp ưu tiên là các cơ quan ban hành văn bản tương đối cố định (Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ…), sau đó, đến các cơ quan cấp bộ (ưu tiên vị trí đầu tiên cho cơ quan cấp bộ chịu trách nhiệm chính trong để mục đang thực hiện). Dưới mỗi cơ quan ban hành, văn bản được bố cục theo các chương với thứ tự theo thứ tự của luật gốc nếu trong luật gốc có chia chương. Trường hợp phần của luật gốc chỉ có một nội dung duy nhất không chia chương thì người làm pháp điển sẽ chủ động đặt thêm chương (gọi là Chương 1 – trừ phần về các quy định chung). Dưới mỗi cơ quan ban hành văn bản, nếu có từ hai văn bản trở lên cùng quy định về vấn đề đang được đề cập tại phần tương ứng thì thứ tự sắp xếp là thứ tự ngày ban hành văn bản, văn bản ban hành trước xếp trước, văn bản ban hành sau xếp sau. Các quy định chuyển tiếp, hồi tố vẫn có tần suất sử dụng tương đối nhiều được tập hợp và sắp xếp vào phần cuối cùng của để mục, nhằm thuận tiện cho việc dỡ bỏ các quy định này ra khỏi Bộ pháp điển khi không còn được sử dụng nhiều.

Các bảng biểu, phụ lục nếu là nội dung gắn liền với quy định thì được đưa trực tiếp vào nội dung điều khoản của Bộ pháp điển, nếu là dạng biểu mẫu thủ tục hành chính thì được đưa thành phụ lục của Bộ pháp điển và được đánh số theo thứ tự từ một đêm hết, đồng thời, cũng được sắp xếp theo nội dung của khung chính (trong khả năng có thể).

Cách thức đánh số của Bộ pháp điển: Tất cả các quy định riêng lẻ sau khi được đưa vào Bộ pháp điển sẽ được đánh số theo quy tắc thống nhất theo bốn cấp là: phần, cơ quan ban hành, chương, điều (không đánh số theo cấp mục). Ví dụ: Điều 3.A.1.6 sẽ cho biết thống tín đây là Điều 6 của Chương 1, Phần 3 của Bộ pháp điển.

Tham chiêu đế văn bản gốc: Trong Bộ pháp điển thử nghiệm có phần phụ lục tham chiếu giữa các điều khoản của Bộ pháp điển với điều khoản tương ứng trong văn bản gốc theo chiều xuôi và ngược. Mục đích của việc làm này nhằm tạo thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xem xét thông qua để cho Bộ pháp điển có giá trị pháp lý chính thức, khi muốn đối chiếu quy định của văn bản gốc, bảo đảm rằng Bộ pháp điển luôn tôn trọng nguyên gốc của nội dung văn bản.

Về cách thức duy trì Bộ pháp điển: Bên cạnh việc xây dựng Bộ pháp điển thử nghiệm, các “nhà pháp điển” cũng đã đưa ra một cơ chế duy trì và cập nhật Bộ pháp điển. Theo đó, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới vẫn được thực hiện theo trình tự, thủ tục chung do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định và được thể hiện dưới hình thức văn bản sửa đổi, bô’ sung. Cụ thể, văn bản mới được ban hành sẽ nêu rõ các điều, khoản của Bộ pháp điển sẽ được sửa đổi, bổ sung. Sau khi văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và gửi đăng Công báo, cơ quan tiến hành pháp điển sẽ chịu trách nhiệm đưa các quy định vào Bộ pháp điển theo nguyên tắc “hợp nhất” văn bản theo hướng dẫn của cơ quan ban hành văn bản.

5. Một số nhận xét, đánh giá về hai Bộ pháp điển

Bộ pháp điển về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ có thể được đánh giá là những sản phẩm thử nghiệm thành công về pháp điển hóa theo phương pháp pháp điển hóa hình thức. Về cơ bản, cách thức pháp điển hóa phù hợp với quan điểm mới về pháp điển hóa theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc làm pháp điển hóa theo phương pháp này có thể được thực hiện một cách nhanh chóng, ít tốn kém và không đòi hỏi sự tham gia của các nhà làm chính sách; đổng thời vẫn bảo đảm mục đích của việc tạo ra một hệ thống pháp luật minh bạch, thống nhất, dễ tiếp cận.

Tuy nhiên, qua cách làm này, cũng nhận thấy có một số điểm cần lưu ý như sau:

Thứ nhất, phạm vi của Bộ pháp điển về tổ chức, hoạt động của Quốc hội hẹp, chỉ bao gồm các quy định của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, nên việc tiến hành pháp điển hóa được tiến hành tương đối thuận lợi.

Đối với Bộ pháp điển về sở hữu trí tuệ, phạm vi của Bộ pháp điển tương đối toàn diện trong một lĩnh vực, trọn vẹn theo một chủ đề, bao gồm được tất cả các quy định của pháp luật do các cơ quan khác nhau ban hành đang được áp dụng (gồm luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, quyết định). Do đó, việc tập hợp, rà soát các quy định pháp luật sẽ phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, các “nhà pháp điển” đã phải lựa chọn giải pháp “tương đối” bằng việc yêu cầu các cơ quan ban hành văn bản khẳng’ định chính thức về các quy định được tập hợp trong Bộ pháp điển. Như vậy, sau khi Bộ pháp điển được các cơ quan ban hành văn bản “thông qua”, các quy định không được đưa vào Bộ pháp điển sẽ được coi như không tồn tại và không được biết đến để áp dụng. Bên cạnh đó, do chỉ chủ yếu tập trung vào việc tập hợp, rà soát các quy định để sắp xếp vào cấu trúc khung đã được xác định (cơ bản giữ nguyên cấu trúc của văn bản gốc), mà không có sự sửa đổi, điều chỉnh cần thiết về mặt kỹ thuật nên trong Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ vẫn tồn tại những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định, mặc dù đã được các nhà pháp điển ghi chú để người sử dụng biết.

Thứ hai, theo phương pháp pháp điển hóa hình thức, một trong các bước của quy trình làm pháp điển là phải có sự thống qua của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với các phần tương ứng trong Bộ pháp điển nhằm xác định giá trị pháp lý của các quy phạm trong Bộ pháp điển. Với tính chất là một sản phẩm mang tính thử nghiệm theo phương pháp pháp điển hóa hiện đại, những người làm pháp điển mới chỉ đưa ra đề xuất, kiến nghị dưới góc độ khoa học. Bộ pháp điển thực tế mới chỉ dừng lại ở mức độ của một bản dự thảo có tính chất nghiên cứu, tham khảo, minh họa cho một cách làm pháp điển theo kỹ thuật hiện đại.

Thứ ba, Bộ pháp điển về tổ chức hoạt động của Quốc hội còn thiếu cơ chế duy trì Bộ pháp điển trong giai đoạn tiếp theo. Theo đó, các quy định trong Bộ pháp điển sẽ được sửa đổi, bổ sung, cập nhật như thể nào chưa được các “nhà pháp điển” đề cập. Ngược lại, các “nhà pháp điển” của Bộ pháp điển về sở hữu trí tuệ đã xây dựng được một cơ chế duy trì và cập nhật thường xuyên cho Bộ pháp điển.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)