1. Khái quát chung

Điều 112 BLHS năm 2015 được xây dựng và có những điểm mới sau: Bổ sung cướp phá tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này. Bổ sung khoản 3 quy định hình phạt áp dụng đối với người chuẩn bị phạm tội với hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù, các quy định khác được giữ nguyên. Tội phạm này xâm hại đến quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng đó là quan hệ xã hội liên quan đến sự tồn vong, vững mạnh của chính quyền nhân dân, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Bạo loạn là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng ly khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành nhằm gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền. Tội phạm này xâm hại đến quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng đó là quan hệ xã hội liên quan đến sự tồn vong, vững mạnh của chính quyền nhân dân, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Chính vì tính chất đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội mà tội bạo loạn trong bộ luật hình sự 2015 quy định như sau:

2. Tội bạo loạn được quy định như thế nào?

Tội bạo loạn được quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cụ thể như sau:

Điều 112. Tội bạo loạn
Người nào hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo lực có tổ chức hoặc cướp phá tài sản của cơ quan, tỏ chức, cá nhân nhằm chổng chính quyền nhân dân, thì bị phạt như sau:
1. Người to chức, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hĩnh;
2. Người đồng phạm khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm;
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Hành vi tập trung đông người gây bạo loạn phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào?

Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191

3. Bình luận

Điều luật gồm phần quy định các dấu hiệu pháp lý của tội bạo loạn và 3 đoạn quy định các khung hình phạt, trong đó đoạn 1 quy định khung hình phạt cho người tổ chức, người hoạt động đắc lực cũng như người gây hậu quả nghiêm trọng, đoạn 2 quy định khung hình phạt cho người đồng phạm khác và đoạn 3 quy định khung hình phạt cho trường hợp chuẩn bị phạm tội.

3.1 Dấu hiệu chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội bạo loạn được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.

3.2 Mặt khách thể

Tội phạm này xâm hại đến quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng đó là quan hệ xã hội liên quan đến sự tồn vong, vững mạnh của chính quyền nhân dân, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của nhà nước CHXHCN Việt Nam.

3.3 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội bạo loạn được quy định là hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo lực có tổ chức. Trong đó, hoạt động vũ trang được hiểu là hoạt động có trang bị vũ khí, có thể là vũ khí thô sơ hoặc vũ khí quân dụng; dùng bạo lực có tổ chức được hiểu là việc sử dụng sức mạnh tuy không có vũ khí nhưng có sự liên kết, phối hợp đồng thời của nhiều người theo chỉ đạo chung. Cả hai loại hành vi này có cùng đối tượng nhằm tới là trụ sở cơ quan nhà nước, doanh trại quân đội, kho tàng, nhà máy, người thi hành công vụ V.V.. Hành vi cụ thể ở đây có thể là bắn phá, cho nổ bộc phá hoặc chỉ là bao vây, chiếm đóng trụ sở cơ quan nhà nước hoăc là đe dọa, bắt giam, tra tấn cán bộ, công chức, người thi hành công vụ V.V..Về mặt hậu quả: Làm suy yếu hệ thống chính quyền nhân dân; gây thiệt hại về người và tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hành vi khách quan của cấu thành tội bạo loạn là một trong các hành vi sau đây:Hoạt động vũ trang là hành vi tập hợp đông người có trang bị vũ khí và dùng vũ lực công khai tấn công cơ quan nhà nước như Ủy ban nhân dân, cơ quan Công an, doanh trại Quân đội…, bắn giết cán bộ, nhân dân…
Dùng bạo lực có tổ chức là hành vi lôi kéo, tụ tập nhiều người không có vũ trang hoặc có nhưng không đáng kể tiến hành các hoạt động mít tinh, biểu tình, đập phá tài sản,…nhằm chống lại chính quyền nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Thực tế cho thấy, hành vi phạm tội này thường dựa vào số đông người, gồm các đối tượng phản động chống phá, cơ hội chính trị và số quần chúng chậm tiến để kích động, tập hợp quần chúng tổ chức mít tinh, biểu tình, hô khẩu hiệu, xúc phạm cơ quan nhà nước, chống chính quyền, bao vây, chiếm giữ, đạp phá trụ sở, đã kích cán bộ.
Cướp phá tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân là hành vi cướp, đốt phá, hủy hoại tài sản nhằm gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, gây rối trật tự trị an với mục đích chống chính quyền nhân dân. Đây là hành vi chuyển sang từ tội hoạt động phỉ quy định tại Điều 83 của BLHS năm 1999, nên trên thực tế, hành vi này thường xảy ra ở những vùng hiểm yếu như rừng núi, bưng biền…và mức độ gây thiệt hại về tài sản nhỏ hơn, hạn chế hơn hành vi phá hủy tài sản của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân quy định tại Điều 113 BLHS năm 2015.
Tội bạo loạn có thể được thực hiện bằng một hoặc cả ba hành vi nêu trênTội bạo loạn thường được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, đặc biệt có thể có tổ chức. Trong đó có người giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, có người giữ vai trò xúi giục, giúp sức hoặc thực hành.
Tội bạo loạn khác tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân ở chỗ người phạm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền có thể hoạt động thành lập tổ chức hoặc tuyên truyền, lôi kéo người khác tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, còn ở tội bạo loạn, người phạm tội hoạt động vũ trang, dùng bạo lực có tổ chức hoặc cướp phá tài sản với mục đích chống lại chính quyền nhân dân, làm suy yếu, lật đổ chính quyền nhân dân.Tội bạo loạn có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.Tội bạo loạn được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích phạm tội là chống chính quyền nhân dân, cụ thể là nhằm gây rối về an ninh chính trị và trật tự xã hội. Mục đích chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Hoạt động vũ trang: Người phạm tội được trang bị các loại vũ khí (có thể là vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ,…) để hoạt động công khai chống phá chính quyền nhân dân; sẵn sàng tấn công, chống trả các lực lượng chấp pháp của quốc gia.Dùng bạo lực có tổ chức: Lôi kéo, tụ tập nhiều người tại không vũ trang (hoặc có vũ trang nhưng không đáng kể) một khu vực địa lý nhất định (hoặc rộng hơn là trên phạm vi cả nước) nhằm dùng sức mạnh của tập thể để hoạt động công khai chống phá chính quyền nhân dân, sẵn sàng dùng vũ lực để tấn công các lực lượng chấp pháp của quốc gia.Cướp phá tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân: Cướp, hủy hoại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, gây rối trật tự trị an tại một khu vực địa lý nhất định nhằm công khai chống chính quyền nhân dân.
Về mặt hậu quả: Làm suy yếu hệ thống chính quyền nhân dân; gây thiệt hại về người và tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

3.4 Dấu hiệu lỗi của chủ thể và dấu hiệu mục đích phạm tội

Hành vi hoạt động vũ trang và hành vi dùng bạo lực có tổ chức đã thể hiện lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Mục đích phạm tội được quy định là nhằm chống chính quyền nhân dân (khi thực hiện hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo lực có tổ chức). Dấu hiệu mục đích phạm tội này cho phép phân biệt tội bạo loạn với các tội khác có các dấu hiệu về mặt khách quan và dấu hiệu lỗi tương tự như tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 BLHS), tội chống người thi hành công vụ (Điều 330 BLHS).
Đoạn 1 của điều luật quy định khung hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình được áp dụng cho người tổ chức, người hoạt động đắc lực và người gây hậu quả nghiêm trọng. Trong đó, người tổ chức được hiểu là người có hành vi thành lập hoặc điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm tội bạo loạn; người hoạt động đắc lực là người tham gia trong nhóm đồng phạm tội bạo loạn và đã thực hiện hành vi thể hiện vai trò tích cực và mức độ tham gia quan trọng của mình; người gây hậu quả nghiêm trọng là người tham gia trong nhóm đồng phạm tội bạo loạn đã thực hiện hành vi cụ thể gây hậu quả nghiêm trọng.
Đoạn 2 của điều luật quy định khung hình phạt có mức phạt tù từ 05 năm đến 15 năm được áp dụng cho người đồng phạm khác. Người đồng phạm khác là người tham gia trong nhóm đồng phạm tội bạo loạn nhưng không phải là người hoạt động đắc lực cũng như không phải là người gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại đoạn 1 của điều luật.
Đoạn 3 của điều luật quy định khung hình phạt có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm được áp dụng cho trường họp chuẩn bị phạm tội bạo loạn. Quy định này là điểm mới của BLHS năm 2015, thể hiện rõ đường lối xử lý có sự phân hóa trách nhiệm hình Sự một cách rõ ràng giữa trường hợp chuẩn bị phạm tội và trường hợp tội phạm hoàn thành ở tội bạo loạn.
Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung quy định tại Điều 112 BLHS năm 2015, đó là tước một số quyền công dân từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế, cấm lưu trú từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group