1. Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) là gì?

Hệ thống ưu đãi phổ cập là kết quả của các cuộc đàm phán liên chính phủ được tổ chức dưới sự bảo trợ của Hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD). Theo Hệ thống ưu đãi phổ cập, các ưu đãi về thuế quan được áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu từ các nước đang phát triển, trên cơ sở không cần có đi có lại và không phân biệt đối xử.

Hệ thống ưu đãi phổ cập, tên tiếng Anh là Generalized System of Preferences (viết tắt GSP), là một hệ thống mà theo đó các nước phát triển, được gọi là các nước cho hưởng, cho các nước đang phát triển, được gọi là các nước được hưởng, hưởng chế độ ưu đãi bằng cách giảm hoặc miễn thuế. Chế độ ưu đãi được xây dựng trên cơ sở không có sự phân biệt và không đòi hỏi bất kỳ nghĩa vụ nào từ phía các nước đang phát triển.

Trên cơ sở của Hệ thống GSP, mỗi quốc gia xây dựng một chế độ GSP cho riêng mình với những nội dung, quy định, mức ưu đãi khác nhau tuy nhiên mục tiêu của hệ thống GSP vẫn được đảm bảo.

2. Mục tiêu chính của GSP là gì ?

– Tạo điều kiện để các nước đang phát triển thấy được khả năng tiềm tàng về mở rộng buôn bán phát sinh từ chế độ GSP và tăng cường khả năng sử dụng chế độ này.

– Tăng kim ngạch xuất khẩu của các nước được hưởng.

– Thúc đẩy công nghiệp hoá của các nước này.

– Đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế của những nước này.

– Phổ biến thông tin về các quy định và thủ tục điều chỉnh buôn bán theo chế độ này.

– Giúp đỡ các nước được hưởng thiết lập những điểm trọng tâm trong nước để tăng cường sử dụng GSP.

– Cung cấp thông tin về các quy định liên quan đến thương mại như thuế chống phá giá và chống bù giá, các quy định hải quan, thủ tục giấy phép nhập khẩu, và pháp luật thương mại khác quy định các điều kiện thâm nhập thị trường các nước cho hưởng.

Chế độ ưu đãi phổ cập mới không có giới hạn ưu đãi. Các hạn ngạch trước kia, khối lượng xác định được miễn thuế hoặc các mức trần hạn chế khối lượng hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi đã được loại bỏ. Miễn giảm thuế được điều chỉnh theo mức độ nhạy cảm của sản phẩm mà đã được chia làm bốn loại sau:

– Các sản phẩm rất nhạy cảm: ví dụ như dệt may, quần áo

– Các sản phẩm nhạy cảm: ví dụ như sản phẩm da, giày dép

– Các sản phẩm bán nhạy cảm: đồ trang sức, hàng điện tử và một số hàng da

– Các sản phẩm không nhạy cảm: nội thất bằng gỗ, đồ chơi, trò chơi, hàng thể thao.

3. Nội dung chính của GSP

3.1 Nước cho hưởng ưu đãi GSP:

Những nước đang có chế độ ưu đãi phổ cập:

Hiện nay, có 16 chế độ ưu đãi khác nhau đang hoạt động tại 28 nước phát triển, bao gồm 15 nước thành viên của EU.

EU: Áo, Bỉ, Đan Mạch, Đức, Ailen, Italy, Luc Xăm Bua, Hà Lan, Anh, Hy Lạp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Bồ Đào Nha, Pháp.

Nhật, Niu – Di – Lân, Thuỵ Sĩ, Bun – Ga – Ry, Hung – Ga – Ry, Séc, Ba Lan, Nga, các quốc gia trung lập (CIS), Ca – Na – Đa, Na – Uy, Ôx-Trây-Lia, Ru-Ma-Ni.

3.2 Nước được hưởng GSP:

Bao gồm những nước đang phát triển và những nước kém phát triển. Các nước kém phát triển thường được hưởng một chế độ đặc biệt riêng, có nhiều ưu đãi hơn các nước đang phát triển. Đối với mỗi quốc gia dành ưu đãi, các nước được hưởng được liệt kê trong danh sách ban hành kèm theo chế độ GSP. Danh sách này có thể được sửa đổi bổ sung.

3.3 Hàng hoá được hưởng ưu đãi.

Hàng hoá được hưởng ưu đãi được phân loại thành hai nhóm: các sản phẩm công nghiệp và các sản phẩm nông nghiệp.

Danh mục hàng hoá được hưởng được các nước cho hưởng ưu đãi ban hành có sửa đổi định kỳ và được xây dựng trên có sở biểu thuế xuất nhập khẩu của nước đó.

Việc bổ sung hay loại bỏ một mặt hàng nào đó trong Danh mục được các nước cho hưởng ưu đãi thực hiện dựa trên tình hình sản xuất trong nước mặt hàng đó.

3.4 Mức độ ưu đãi

Các nước cho hưởng ưu đãi quy định thuế suất ưu đãi cho chế độ GSP dựa trên mức thuế suất của chế độ đối xử tối huệ quốc (MFN).

Nhìn chung, thuế suất ưu đãi theo chế độ GSP ở mức thấp khoảng vài phần trăm hoặc được miễn hoàn toàn.

3.5 Cơ chế bảo vệ

Với ưu đãi thuế quan GSP được hưởng, hàng hoá của các nước được hưởng sẽ có thêm ưu thế trong thị trường nứơc nhập khẩu. Tuy nhiên, hàng hoá này sẽ tạm thời không được hưởng ưu đãi thuế quan GSP nữa trong một số trường hợp nhất định. Khi một hàng hoá nhập khẩu theo GSP ảnh hưởng đến công nghiệp sản xuất mặt hàng đó trong nước, nước cho hưởng ưu đãi sẽ thực hiện những biện pháp cần thiết theo cơ chế bảo vệ của hệ thống GSP. Có nhiều cơ sở để xác định hàng hoá nhập khẩu theo GSP có ảnh hưởng tới nền công nghiệp nội địa không, thường là một mức trần về khối lượng nhập khẩu, về khối lượng trị giá thực hiện…

3.6 Hàng thủ công.

Có nhiều nước cho hưởng ưu đãi cho phép các hàng thủ công và/hoặc sản phẩm làm bằng tay được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt. Chế độ này được ban hành như một bộ phận của quy chế GSP hoặc cũng có thể vượt ra ngoài phạm vi đó theo các thoả thuận riêng. Thông thường chế độ ưu đãi đối với các hàng này là miễn thuế. Tuy nhiên các quy tắc của các nước cho hưởng ưu đãi rất khác nhau ở việc xác định thế nào là hàng thủ công, mức độ ưu đãi, quản lý hạn ngạch, các loại chứng từ phải xác nhận, các yêu cầu về pháp lý phải tuân thủ v.v…

4. Một số thuận lợi của GSP mang lại trong quan hệ thương mại quốc tế

Hơn 40 năm kể từ thời điểm Chế độ GSP đầu tiên được khởi xướng và 1971 bởi EEC cho tới nay, GSP phổ biến trong kinh doanh xuất nhập khẩu nh cơ chế truyền thống để tăng cường trao đổi thương mại giữa các nước phát tr đang phát triển. Khi các rào cản thuế quan tại các nước phát triển được đơn p cắt giảm hay hủy bỏ (thuế suất thấp hơn thuế theo MFN), lẽ dĩ nhiên, các nước hưởng ưu đãi này có quyền hy vọng vào lợi nhuận tăng lên do hàng hóa nước mình có thể xuất khẩu thuận lợi hơn sang các thị trường mới, cạnh tranh được với hàng hoá cùng loại khác tại chính nước phát triển. Thật vậy, nhiều số liệu thống kê ch GSP thực sự có tác dụng trong việc thúc đẩy giao lưu thương mại; khả năng t FDI đầu tư vào DCs cũng tăng lên 4 . Một nghiên cứu gần đây khi tiến hành th hoạt động nhập khẩu song phương của hơn 183 quốc gia trong giai đoạn từ năm 1996-2008 cũng chỉ ra rằng GSP làm tăng trung bình 10%-30% dòng thươn kích thích sự tăng trưởng kinh tế, trước tiên là ở các LDCs (vốn luôn nhận đư nhiều ưu đãi đặc biệt và rộng mở hơn so với DCs theo GSP các nước), sau đó các DCs.5 Về phía các nước phát triển, vốn dĩ có không ít tranh luận về hi kinh tế mà Chế độ GSP mang lại cho các cường quốc này khi việc cho phép hà từ các DCs di chuyển tự do vào thị trường các nước phát triển có khả năng đe phát triển các ngành công nghiệp quan trọng trong nước. Tuy nhiên, thực tế đã rằng GSP tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế của các quốc gia cho hưởn là đe dọa thị trường sản xuất nội địa. Chẳng hạn, đối với các doanh nghiệp sả hàng hóa của Mỹ vào năm 2005, ¾ số lượng các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ hưởng thuế suất nhập khẩu thấp theo Chế độ GSP là các nguyên liệu thô, phận, thành phần, động cơ…phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng tiêu dùng nước hoặc xuất khẩu của các công ty Mỹ6 . Như vậy, không kể đến những lợi mở rộng việc làm, đa dạng hóa hàng hóa trong thị trường nội địa…chỉ tính riê ích về kinh tế, các nước phát triển cũng không phải là không có lợi khi quyết đ hay chăng trao ưu đãi GSP cho các DCs. Có thể nói, dưới góc độ kinh tế, khô phủ nhận việc áp dụng GSP trong trao đổi buôn bán quốc tế mang tới hiệu qu định trong quan hệ thương mại giữa các nhóm nước có trình độ phát triển khác nhau.

5. Một số hạn chế của GSP trong quan hệ thương mại quốc tế

Khi hoạch định các chính sách ngoại thương, chính trị là yếu tố khó có t lập với những tính toán kinh tế. Điều đó cũng đúng với thực tế khi các nướ triển đơn phương đề ra Chế độ GSP dành cho các DCs, LDCs. Ý đồ sử dụng nhằm thực hiện các toan tính quốc gia của các nước phát triển đã sớm bộc lộ r chế độ GSP của Mỹ làm điền hình. Mỹ thường từ chối trao ưu đãi cho các nướ sản. Sau sự kiện 11/9, Mỹ cũng từ chối trao ưu đãi cho các nước mà Mỹ cho r sự đe dọa từ khủng bố. Những thay đổi trong quan điểm chính trị của Mỹ với DCs, LDCs (các lí do phi kinh tế như chính trị, nhân quyền…) cũng được nguyên nhân chính dẫn tới việc một nước bị rút khỏi danh sách ưu đãi GSP những lí do này luôn được hợp thực hóa dưới nhiều hình thức, mà tiêu biểu đơn phương đặt ra các điều kiện ràng buộc DCs, LDCs cần đáp ứng để được ưu đãi. Các DCs, LDCs không có quyền trao đổi, thỏa thuận về những điều ki vì đặc trưng của GSP là chế độ ưu đãi một chiều. Sẽ là sai lầm nếu đánh giá GSP chỉ là sự hỗ trợ đơn thuần mà các nước phát triển dành cho các DCs, LDCs trong quan hệ TMQT. Trên cơ sở có sự áp đặt ý chí thông qua Chế độ GSP, các nước phát triển củng cố sự chi phối của mình tới các nước đang phát triển, về lâu về dài từng bước điều chỉnh tình hình chính trị, kinh tế của các nước đang phát triển theo hướng thuận lợi nhất.

Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam cũng chưa được hưởng GSP của Mỹ với lí do chưa có nền kinh tế thị trường, thực chất đằng sau sự khước từ này của Mỹ là do sự khác nhau trong quan điểm chính trị giữa hai nước vẫn chưa thể giải quyết. 3 có xu hướng tập trung ưu tiến xuất khẩu hàng hóa sang các nước phát triển (có đến ¾ kim ngạch buôn bán quốc tế trong thời kỳ đầu ra đời GSP của DCs đều là được thực hiện với các nước tư bản phát triển). Điều này làm tăng sự lệ thuộc kinh tế của các nước nhỏ vào các nước phát triển, những biến động tiêu cực trong tình hình kinh tế của các nước phát triển nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới DCs; sự lệ thuộc kinh tế, theo đó, cũng sẽ kéo theo sự lệ thuộc về chính trị. Mối quan hệ thương mại hình thành trên cơ sở những mưu tính chính trị khiến GSP trở nên khó dự đoán, thiếu ổn định, ảnh hưởng tới việc xây dựng nền kinh tế bền vững ở các nước đang phát triển. Ngoài hạn chế về sự chi phối sâu sắc của chính trị ảnh hưởng tới sự bình đẳng, tính chất không phân biệt đối xử khi xét hưởng GSP, Chế độ ưu đãi phổ cập cũng tồn tại nhiều hạn chế khác, (ví dụ như: GSP nằm ngoài khung pháp lý ràng buộc – GATT; sự phức tạp trong quy định về quy tắc xuất xứ; sự bao phủ hạn chế các mặt hàng có thể hưởng ưu đãi cũng như giới hạn mức trần (ceiling)…) khiến GSP dần trở thành công cụ TMQT kém hấp dẫn trong việc hướng đến cải thiện tình hình tăng trưởng kinh tế ở DCs, LDCs. Đặc biệt, nhiều phân tích đã chỉ ra rằng sự mở rộng tự do hóa (liberalization) trên cơ sở có đi có lại trong thương mại là chìa khóa cho sự tăng trưởng kinh tế. Các nước đang phát triển tốt hơn hết nên rút khỏi danh sách ưu đãi trong các chương trình GSP để chủ động tự tìm kiếm động lực cắt giảm các rào cản thuế, mở cửa thị trường, tránh lệ thuộc.

Luật LVN Group (tổng hợp & phân tích)