1. Khái niệm hoãn thi hành án :

Hoãn thi hành án là chuyển thời điểm đã định thi hành bản án hoặc quyết định của Tòa án sang thời điểm khác muộn hơn.

Hoãn thi hành án bao gồm hoãn thi hành án dân sự và hoãn thi hành án hình sự và được tiến hành theo thủ tục khác nhau.

Trong lính vực thi hành án dân sự, việc hoãn thi hành án dân sự chỉ được tiến hành trong trường hợp Cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án mà chưa thi hành được khoản nào và chưa tổ chức việc cưỡng chế thi hành.

Trong lĩnh vực hình sự, việc hoãn thi hành án chị áp dụng đối với người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại .

2. Quy định về hoãn thi hành án dân sự theo pháp luật :

2.1. Các trường hợp hoãn thi hành án dân sự theo quy định pháp luật:

Theo điều 48 của Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định như sau:

– Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án;

– Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định;

– Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác.

– Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này; tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật này nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm;

– Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này;

– Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận;

– Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật này chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan;

– Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật này.

Theo đó, đối với trường hợp người phải thi hành án bị ốm nặng thì phải có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên. Đối với trường hợp người phải thi hành án bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của tòa án thì kèm theo quyết định hoãn thi hành án phải có quyết định của tòa án tuyên rõ người phải thi hành án bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời, nghĩa vụ mà người phải thi hành án thực hiện thuộc loại nghĩa vụ phải tự mình thực hiện, trong trường hợp nghĩa vụ thi hành án có thể do người khác thực hiện thay thì sẽ không áp dụng căn cứ này để ra quyết định hoãn thi hành án.Theo quy định tại Điều 40 Bộ luật dân sự năm 2015, nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống, trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định trên thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống. Việc chưa xác định được nơi cư trú của người phải thi hành án thể hiện ở việc người phải thi hành án thực tế không sinh sống, cư trú tại nơi người đó đăng ký, ví dụ, người phải thi hành án chuyển nhà hoặc bỏ đi làm ăn xa hoặc mãn hạn tù không về lại địa phương…mà cơ quan thi hành án chưa xác định được nơi cư trú của họ.
Theo khoản 1 Điều 14 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chỉ ra quyết định hoãn thi hành án theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 48 Luật thi hành án dân sự trong trường hợp người phải thi hành án phải tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định. Do đó, căn cứ chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án cũng chỉ được áp dụng đối với nghĩa vụ mà người phải thi hành án phải tự mình thực hiện. Trong trường hợp không rõ địa chỉ của người phải thi hành án nhưng người phải thi hành án có tài sản tại địa phương thì tài sản đó vẫn bị xử lý để thi hành án. Xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận trong pháp luật dân sự, người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận về việc hoãn thi hành án. Về hình thức, việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của người được thi hành án và người phải thi hành án. Đối với trường hợp này thì trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác. Nếu đương sự thỏa thuận trong thời gian hoãn thi hành án vẫn phải chịu khoản lãi suất chậm thi hành án thì người phải thi hành án vẫn phải chịu khoản lãi suất này.

 

2.2.Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án:

Trong trường hợp thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế. Trường hợp cơ quan thi hành án nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết. Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi hành xong thì cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho người yêu cầu hoãn thi hành án. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được.

2.3.Thời hạn hoãn thi hành án theo quy định pháp luật:

Thời hạn hoãn thi hành án theo quy định pháp luật theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.

3. Quy định hoãn chấp hành án phạt tù theo quy định pháp luật :

Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

– Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

– Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

– Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

– Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

Theo nghị quyết 01/2007/ NQ- HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định Bộ luật hình sự quy định về việc hoãn chấp hành án phạt tù cụ thể như sau:

Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng, đồng thời sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiệm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được hoãn chấp hành hình phạt tù:

– Là người bị bệnh nặng, tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ; do đó, cần thiết phải cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù để họ có điều kiện chữa bệnh; ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu… Phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người bị xử phạt tù bị bệnh nặng và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ.

– Là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không phân biệt là con đẻ hay con nuôi), nếu họ bị xử phạt tù lần đầu.

– Là người bị kết tù không phải về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng và là người duy nhất trong gia đình đang lao động có thu nhập và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì gia đình họ sẽ gặp khó khăn đặc biệt trong cuộc sống (như không có nguồn thu nhập nào khác, không có ai chăm nom, nuôi dưỡng… những người thân thích của họ trong gia đình mà không có khả năng lao động).

– Là người bị kết án về tội ít nghiệm trọng (là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù) và do nhu cầu công vụ, tức là do nhu cầu của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương cần thiết sự có mặt của họ để thực hiện công vụ nhất định và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù ngay thì chưa có người thay thế họ (có xác nhận bằng văn bản của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương có liên quan đến việc thực hiện công vụ đó).

Trên đây là nội dung bài viết về hoãn thi hành án và quy định về việc hoãn thi hành án của pháp luật. Trân trọng./