1.Khái niệm bị hại là gì ?
>> Xem thêm: Lời nói sau cùng của bị cáo là gì ? Quy định pháp luật về lời nói sau cùng của bị cáo
BLTTHS cũ quy định “Người bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra”. Đến BLTTHS 2015 thuật ngữ “Người bị hại” trong BLTTHS cũ đã được thay thế bằng thuật ngữ “Bị hại” trong đó khái niệm bị hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm cá nhân và pháp nhân (BLTTHS cũ quy định chỉ có cá nhân).
2.Quyền của bị hại quy định như thế nào ?
>> Xem thêm: Chiến thuật hỏi cung bị can là gì ? Các bước tiến hành việc hỏi cung bị can
Phạm vi của đối tượng được hưởng quyền của bị hại không chỉ giới hạn là những bị hại trực tiếp của tội phạm mà còn được mở rộng ra cả đối tượng khác như: Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định. Trường hợp cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định (Khoản 5 Điều 62 BLTTHS 2015)
Quyền của bị hại và người đại diện của họ được quy định tại khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015 như sau:
– Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ (điểm a khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
– Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu (điểm b khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Đây là một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2015. Theo điểm b khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015 thì bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền: “Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Như vậy, không chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có quyền đưa ra các chứng cứ, đồ vật, tài liệu mà bị hại có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại của mình là do hành vi phạm tội gây ra, thậm chí bị hại có thể chứng minh cả những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết quyền lợi của mình như việc giải quyết bồi thường thiệt hại và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
– Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (điểm c khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Nếu như trước đây, bị hại trong vụ án hình sự chỉ được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu thì theo BLTTHS 2015, bị hại còn có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án đồng thời có quyền yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá các tài liệu, đồ vật đó. Đây là một quy định nâng cao sự chủ động của bị hại khi tham gia tố tụng hình sự. Trên thực tế, bị hại là người trực tiếp bị tội phạm xâm hại, trong nhiều trường hợp bị hại cũng đồng thời là nhân chứng trực tiếp của vụ án, do đó những ý kiến của bị hại về các chứng cứ, tài liệu, đồ vật có ý nghĩa quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định tính khách quan của các chứng cứ, tài liệu đồ vật có liên quan đến vụ án từ đó xác định các tình tiết trong vụ án hình sự.
– Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật (điểm d khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
BLTTHS 2015 cho phép bị hại cũng như đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ những trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội (khoản 1 Điều 207 BLTTHS 2015). Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị trưng cầu giám định của bị hại cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định (khoản 1 Điều 214 BLTTHS 2015)
– Quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án (điểm đ khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Trong giai đoạn điều tra, khi cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra (Điều 229 BLTTHS 2015), quyết định phục hồi điều tra (Điều 235 BLTTHS 2015) và khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải thông báo cho bị hại, đương sự và người đại diện hợp pháp của họ (Điều 232 BLTTHS 2015).
Trong giai đoạn truy tố, khi Viện kiểm sát ra các quyết định như Quyết định truy tố bị can trước Tòa án (Điều 243 BLTTHS 2015), Quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung (Điều 245 BLTTHS 2015), Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, Quyết định phục hồi vụ án (Điều 247, 248, 249 BLTTHS 2015) thì Viện kiểm sát có trách nhiệm thông báo cho bị hại.
Trong giai đoạn xét xử, Toà án giao Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị hại chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên toà (khoản 1 Điều 286 BLTTHS 2015). Các Quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi vụ án của Tòa án được giao bị hại hoặc người đại diện của họ trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định (khoản 2 Điều 286 BLTTHS 2015). Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị hại (khoản 1 Điều 262 BLTTHS 2015).
– Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật (điểm e khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Khi có căn cứ để cho rằng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như điều tra viên, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án không vô tư trong khi tiến hành tố tụng và người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật không vô tư trong khi tham gia tố tụng thì bị hại có quyền đề nghị thay đổi họ (khoản 2 Điều 50 BLTTHS 2015).
– Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường (điểm g khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Bị hại có quyền đề nghị hình phạt đối với người phạm tội để các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng xem xét sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xác định sự thật khách quan của vụ án. Bị hại cũng có quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại và các biện pháp bảo đảm bồi thường thiệt hại do tội phạm xâm phạm.
– Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa (điểm h khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
– Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình (điểm i khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
BLTTHS năm 2015 chính thức quy định đây là quyền của bị hại để họ có thể lựa chọn tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình hoặc là nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
– Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này (điểm k khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Vị trí và vai trò của bị hại khi họ tham gia tố tụng theo BLTTHS cũ tương đối mờ nhạt và chủ yếu được thực hiện trong giai đoạn xét xử của toà án. Tuy nhiên đến BLTTHS 2015 Với quyền được tham gia các hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của BLTHHS 2015 thì vai trò của bị hại đã được chú trọng và nâng cao. Như vậy, bị hại có có thể được tham gia vào một số hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Với quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng quy định tại BLTTHS 2015, bị hại hoàn toàn chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình như họ có được thông tin từ các cơ quan tiến hành tố tụng mà không phải chờ đến khi được thông báo. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải nỗ lực hết sức trong phạm vi khả năng của mình để bị hại được tham gia các hoạt động tố tụng theo luật định đồng thời phải tuân thủ những điều kiện nhất định như việc tham gia đó không ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án cũng như gây khó khăn hoặc cản trở đến hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác.
– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa (điểm l khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Để bảo đảm an toàn cho bị hại, BLTTHS 2015 quy định thêm quyền rất thiết thực cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ khi họ báo cáo về nguy cơ họ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những hành vi đe dọa họ nhằm gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ. Như vậy các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm thực hiện những biện pháp hợp lý để giải quyết những mối lo ngại về an ninh cho các bị hại, xác định tính chất và phạm vi của các biện pháp, đánh giá mức độ nguy hiểm và đưa ra những lựa chọn hợp lý để giải quyết các mối đe dọa với nguồn lực sẵn có để đáp ứng quyền được bảo vệ của bị hại.
– Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án (điểm m khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Trong trường hợp bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ chết hoặc trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Trong trường hợp bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, thì họ có thể uỷ quyền cho người khác. Người được uỷ quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự.
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm n khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015):
Người bị hại có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Điều 469 BLTTHS 2015). Các quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại là các quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra được ban hành theo quy định BLTTHS 2015. Các Hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại là hành vi được thực hiện trong hoạt động tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được thực hiện theo quy định của BLTTHS 2015 (Điều 70 BLTTHS 2015).
3. Thế nào là bị hại, đương sự và người đại diện?
>> Xem thêm: Hỏi cung bị can là gì ? Phân tích quy định pháp luật về hỏi cung bị can ?
Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Ví dụ: Anh A đánh anh B bị gãy tay, trong trường hợp này anh B là người bị thiệt hại trực tiếp về thể chất do việc anh A đánh gây ra. Trong trường hợp này, anh B chính là người bị hại.
Đương sự là cá nhân, pháp nhân tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Trong đó:
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự
Người đại diện là người nhân danh và vì lợi ích của một người khác xác lập thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Người đại diện bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
4. Căn cứ pháp lý về việc hỏi bị hại, đương sự và người đại diện được pháp luật
>> Xem thêm: Mẫu đơn bãi nại vụ án hình sự, giảm nhẹ hình phạt mới nhất 2021
“Bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ trình bày những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.”
Như vậy, sau khi người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó trình bày những gì họ biết về những tình tiết liên quan đến vụ án có liên quan đến họ, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự theo thứ tự luật định hỏi thêm họ về những điểm mà họ trình bày chưa đủ hoặc có mâu thuẫn. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.
Tuy nhiên, ngoài những tình tiết liên quan, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó còn có thế biết các tình tiết khác của vụ án. Trong trường hợp này họ vẫn có thể khai báo với tư cách là người làm chứng trong vụ án.
5. Đối với người đại diện của bị hại
Theo quy định tại khoản 5 Điều 62 BLTTHS thì trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì mới có người đại diện của bị hại. Tuy nhiên, người đại diện là ai, bao gồm những người nào thì BLTTHS lại không quy định nên thực tiễn các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng rất lúng túng khi phải xác định người đại diện của bị hại tham gia tố tụng. Đây cũng là khoảng trống mà BLTTHS không quy định nên mỗi nơi xác định một kiểu.
“Người đại diện” trong tố tụng được hiểu là người thay mặt bị hại tham gia các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, hoà giải tại phiên toà,.. Tuy nhiên, việc quy định chủ thể nào là “người đại diện” lại không được quy định hoặc có quy định nhưng không cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng, dẫn đến tình trạng mỗi cơ quan tiến hành tố tụng hiểu và áp dụng khác nhau.
Thực tiễn điều tra, truy tố xét xử các vụ án hình sự từ trước đến nay, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thường xác định những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của bị hại; nếu không có người ở hàng thừa kế thứ nhất thì xác định những người ở hàng thừa kế thứ hai và nếu hàng thừa kế thứ hai cũng không có thì xác định hàng thừa kế thứ ba, chưa có trường hợp nào cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định người đại diện của bị hại thuộc hàng thừa kế thứ tư. Có trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lại chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu của người thân thích với bị đã chết để xác định tư cách tham gia tố tụng, mà không điều tra xem mối quan hệ của họ với bị hại như thế nào ?
Đó là đối với bị hại bị chết, còn đối với bị hại là người chưa thành niên, người mất tích, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì còn phức tạp hơn nhiều. Ai là người đại diện cho những người này ?
Khi xét hỏi “người đại diện”, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần hỏi rõ quan hệ của họ với bị hại như thế nào ? Nếu “người đại diện” không hợp pháp thì cần giải thích để họ thực hiện đúng các quy định về “người đại diện”
Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xây dựng và trình Quốc hội bổ sung chủ thể tham gia tố tụng với tư cách “người đại diện” hợp pháp bị hại trong trường hợp bị hại chết hoặc mất tích, bị hại là trẻ em, là người mất năng lực hành vi dân sự.
Việc xét hỏi người đại diện của bị hại cũng được tiến hành như xét hỏi đối với bị hại.
Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bị hại, bị can, bị cáo, Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ Luật sư của LVN Group giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group