1. Hội đồng giám định là gì?

Hội đồng giám định là tổ chức bao gồm các giám định viên được cơ quan có thẩm quyền thành lập để tiến hành việc giám định theo trưng cầu giám định.

Có hai loại hội đồng giám định: hội đồng giám định tư pháp và hội đồng giám định không mang tính chất tư pháp.

Hội đồng giám định tư pháp bao gồm các giám định viên tư pháp là những người có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, có thâm niên công tác về nghiệp vụ, chuyên môn đó và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm. Hội đồng giám định tư pháp được lập ra để tiến hành giám định theo quyết định trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án trong những trường hợp cần thiết.

Hội đồng giám định không mang tính chất tư pháp bao gồm những người tuy không mang chức danh ` giám định viên nhưng họ có đủ khả năng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện việc giám định theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền và được thủ trưởng ngành (đối với ngành không có tổ chức giám định tư pháp) cử làm giám định.

Hội đồng giám định được thành lập trong trường hợp thật cần thiết khi vấn đề cần giám định đòi hỏi phải có sự tham gia của giám định viên thuộc các chuyên ngành khác nhau hoặc trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định.

2. Khái niệm giám định tư pháp

Giám định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kĩ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự do người giám định tư pháp thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án.

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 1 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 (có hiệu lực từ 01/01/2021) thì giám định tư pháp được định nghĩa như sau:

Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này.

Đặc trưng cơ bản của hoạt động giám định tư pháp là hoạt động chuyên môn do chuyên gia thực hiệnĐể phục vụ cho việc giải quyết các vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm thu thập chứng cứ và một trong những biện pháp đó là trưng cầu giám định tư pháp. Theo quy định của pháp luật tố tụng thì trong một số trường hợp bắt buộc hoặc khi xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có thể trưng cầu giám định tư pháp. Cơ quan tiến hành tố tụng có thể trưng cầu bất cứ chuyên gia nào có kiến thức về lĩnh vực chuyên môn liên quan đến vụ án để thực hiện giám định. Khi thực hiện giám định, người giám định tư pháp phải sử dụng những kiến thức nghiệp vụ, phương pháp phù hợp và phải thực hiện đúng các quy chuẩn chuyên môn của từng lĩnh vực cụ thể để thực hiện giám định và phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình thực hiện. Xuất phát từ nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân nên khi thực hiện giám định, người giám định không phải chịu chi phối từ phía cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Hoạt động giám định tư pháp không mang tính quyền lực nhà nước. Mục đích hoạt động Giám định tư pháp được thực hiện nhằm cung cấp các chứng cứ để phục vụ cho việc giải quyết các vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, hiện nay, nhu cầucần giám định để phục vụ công tác quản lý Nhà nước, thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ, giao dịch dân sự của tổ chức, cá nhân ngày một nhiều.

3. Quyền, nghĩa vụ của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định tư pháp

Điều 23 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định

1. Người giám định tư pháp có quyền:

a) Lựa chọn phương pháp cần thiết, phù hợp để tiến hành giám định theo nội dung yêu cầu giám định;

b) Sử dụng kết quả thực nghiệm, xét nghiệm bổ sung hoặc kết luận chuyên môn do cá nhân, tổ chức khác thực hiện nhằm phục vụ cho việc giám định;

c) Độc lập đưa ra kết luận giám định.

d) Đề nghị người trưng cầu giám định hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật khi có dấu hiệu bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân hoặc người thân thích do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp;

đ) Từ chối thực hiện giám định tư pháp trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này;

e) Được bố trí vị trí phù hợp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa.

2. Người giám định tư pháp có nghĩa vụ:

a) Tuân thủ các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp;

b) Thực hiện giám định theo đúng nội dung yêu cầu giám định;

c) Thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn yêu cầu; trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để thực hiện giám định thì phải thông báo kịp thời cho người trưng cầu, yêu cầu giám định biết;

d) Lập hồ sơ giám định;

đ) Bảo quản mẫu vật giám định, tài liệu liên quan đến vụ việc giám định;

e) Không được thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp được người đã trưng cầu, yêu cầu giám định đồng ý bằng văn bản;

g) Chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình đưa ra. Trường hợp cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì còn phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.

3. Ngoài các quyền, nghĩa vụ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người giám định tư pháp có quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về tố tụng.

4. Giám định viên tư pháp là gì?

Khoản 6 Điều 2 Luật giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi năm 2020) giải thích: Giám định viên tư pháp là người đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm để thực hiện giám định tư pháp.

Dẫn chiếu tới khoản 1 Điều 7 Luật giám định tư pháp, đó là những tiêu chuẩn như sau:

Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể được xem xét, bổ nhiệm giám định viên tư pháp:

– Có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt;

– Có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên.

Trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự đã trực tiếp giúp việc trong hoạt động giám định ở tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì thời gian hoạt động thực tế chuyên môn từ đủ 03 năm trở lên;

– Đối với người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự phải có chứng chỉ đã qua đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ giám định.

Bên cạnh đó pháp luật quy định cụ thể người thuộc một trong các trường hợp sau đây không được bổ nhiệm giám định viên tư pháp:

– Mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

– Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý; đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

– Đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc

5. Các trường hợp giám định tư pháp

Pháp luật hiện hành của Việt Nam có phân định thành hai loại trường hợp tiến hành giám định tư pháp: Các trường hợp bắt buộc phải tiến hành giám định tư pháp; Các trường hợp tiến hành giám định tư pháp theo yêu cầu.

5.1. Các trường hợp bắt buộc phải tiến hành giám định tư pháp

Hiện hành tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định. Cụ thể tại Điều 206 như sau:

Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:

1. Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;

2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;

3. Nguyên nhân chết người;

4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;

5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;

6. Mức độ ô nhiễm môi trường.

Bên cạnh đó, tại Điều 103 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về việc giám định chứng cứ bị tố cáo giả mạo như sau:

1. Trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại; nếu không rút lại thì người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Tòa án có quyền quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 102 của Bộ luật này.

2. Trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án chuyển tài liệu, chứng cứ có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

3. Người đưa ra chứng cứ được kết luận là giả mạo phải bồi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác và phải chịu chi phí giám định nếu Tòa án quyết định trưng cầu giám định.

Như vậy, việc pháp luật quy định bắt buộc phải tiến hành giám định có nghĩa là trong các trường hợp đã nêu, nếu cơ quan tư pháp không yêu cầu tiến hành giám định thì quyết định, phán quyết của cơ quan tư pháp sẽ thiếu cơ sở pháp lý. Đó sẽ là một trong những lý do dẫn đến việc huỷ bỏ quyết định hoặc bản án đã tuyên.

Trong giao dịch dân sự, kinh tế, lao động vẫn có những trường hợp nghi ngờ về trạng thái tâm thần, về năng lực hành vi dân sự của các bên tranh chấp, về các trường hợp bất khả kháng, …. Việc làm rõ những mối nghi ngờ này cũng quan trọng và cần thiết cho việc bảo đảm tính khách quan, phù hợp vối sự thật của các quyết định, phán quyết của các cơ quan tư pháp khi điều tra xét xử các vụ án về dân sự, kinh tế, lao động. Bởi vậy, trong Bộ luật tố tụng dân sự tuy không quy định về các trường hợp bắt buộc phải giám định song vẫn quy định về quyền trưng cầu giám định và yêu cầu giám định của các bên.

5.2. Các trường hợp tiến hành giám định tư pháp theo yêu cầu

Ngoài các trường hợp phải tiến hành giám định như đã nêu tại Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, còn lại là những việc tiến hành giám định theo yêu cầu.

Đối với các trường hợp mà luật pháp không bắt buộc phải tiến hành giám định thì trong trường hợp cần thiết, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tự mình yêu cầu hoặc theo yêu cầu của đương sự trưng cầu giám định.

Khoản 3 Điều 2 Luật giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi năm 2020) giải thích: Người yêu cầu giám định là người có quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận. Người có quyền tự mình yêu cầu giám định bao gồm đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.

Theo đó, có thể thấy ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền trưng cầu giám định hoặc trưng cầu theo yêu cầu của đương sự thì bản thân đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự có quyền tự mình yêu cầu trưng cầu giám định. Quy này đã đảm bảo quyền yêu cầu giám định của đương sự không bị cản trở bởi bất cứ cơ quan tiến hành tố tụng nào.