1. Giết người và chiếm đoạt tài sản

Thưa Luật sư của LVN Group, xin hỏi: A (22 tuổi), B (23 tuổi) cùng có quan hệ yêu đương với một cô gái là C. Do mâu thuẫn nên A gặp B để giải quyết mâu thuẫn. Một buổi tối A hẹn B lên bờ đê để “nói chuyện”, thấy vắng người A bất ngờ dùng dây thắt cổ B khiến B bất tỉnh. Tưởng B đã chết nên A lục túi B lấy đi tài sản trị giá 7 triệu đồng.
B sau đó được phát hiện đưa đi cấp cứu kịp thời nên còn sống. Luật sư cho tôi hỏi là: Thứ nhất, tội mà A phạm phải là tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp có phải không? Thứ hai, sau khi B chết, A đã lục túi lấy tiền và điện thoại di động của B, số tài sản trị giá 7 triệu đồng thì anh này phạm thêm tội cướp tài sản hay công nhiên chiếm đoạt tài sản? Tại sao? Thứ ba, hình phạt nặng nhất dành cho A là gì với cả hai tội trên ?
Cảm ơn!

Luật sư trả lời:

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến công ty Luật LVN Group, chúng tôi giải đáp thắc mắc của bạn như sau:

Thứ nhất, A có phải phạm tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp hay không ?

Căn cứ theo Điều 10 Bộ luật hình sự năm 2015 (Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về có ý phạm tội như sau:

Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Hành vi của a là hành vi cố ý, A nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm, thấy trước được hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra.

Giết người là hành vi tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật. Như trường hợp trên, A có hành vi dùng dây thắt cổ B, tuy nhiên B đã được kịp thời cứu và không chết. Cần phải phân biệt rõ ở đây với tội cố ý gây thương tích, là vì lý do khách quan, A tưởng B đã chết bỏ đi và được người khác đưa đi bệnh viện nên không chết. Do đó, A có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết tại Điều 123 và ở giai đoạn chưa đạt tại Khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Điều 123. Tội giết người

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Giết 02 người trở lên;

b) Giết người dưới 16 tuổi;

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

n) Có tính chất côn đồ;

o) Có tổ chức;

p) Tái phạm nguy hiểm;

q) Vì động cơ đê hèn.

……

Thứ hai, A phạm tội cướp tài sản hay công nhiên chiếm đoạt tài sản?

Trong trường hợp này, A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Giải thích: Hành vi của tội này khác với hành vi chiếm đoạt của các tội khác ở dấu hiệu công nhiên, tội này có những dấu hiệu dễ bị nhầm lần với các tội chiếm đoạt tài sản khác như tội cướp tài sản. Nhưng hành vi của tội này xảy ra trong hoàn cảnh chủ tài sản không có điều kiện để ngăn cản. Như vậy, A có hành vi trên chiếm đoạt tài sản với trị giá 7.000.000 đồng nên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

1. Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

…….

Thứ ba, hình phạt cho A nặng nhất là gì với cả 2 tội trên?

Về tội giết người, A có thể sẽ phải chịu mức án tù không quá 20 năm hoặc không quá 3/4 mức phạt tù theo điều luật quy định.

Về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, A có thể sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Từ những căn cứ trên, Tòa án sẽ quy định hình phạt của từng tội của A và tổng hợp hình phạt của các tội trên theo căn cứ tại Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2. Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh?

Luật sư có thể cho em biết nếu phạm tội giết người trong trường hợp người phạm tội cho người bị hại mượn giấy tờ nhà để cầm cố nhưng người bị hại để ngôi nhà bị thanh lý nhưng bị hại không hoàn lại cho người phạm tội ?
Vậy có phải người phạm tội đang trong trạng thái bị kích động không ? Và nếu phạm tội trong tình trạng đang bị kích động thì khung hình phạt cho tội danh như thế nào ?
Cám ơn Luật sư của LVN Group!

>>Luật sư tư vấn luật hình sự trực tuyến, gọi: 1900.0191

Luật sư tư vấn:

Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 như sau:

Điều 125. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Dấu hiệu pháp lý của tội phạm này được quy định như sau:

– Khách thể: là quan hệ nhân thân là nội dung là quyền sống của con người, đối tượng tác động của tội phạm là con người.

Khách quan: là hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác trong trạng thái khả năng kiểm soát, kiềm chế hành vi bị ảnh hưởng nghiêm trọng

Cả điều kiện và nguyên nhân của tình trạng tinh thần bị kích động mạnh và điều kiện chủ thể thực hiện hành vi trong trạng thái tinh thần đó đều là những dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Vì vậy trong trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng không liên quan đến lỗi của nạn nhân đối với người phạm tội thực hiện hành vi giết người khi trạng thái tinh thần kích động đã qua đi thì hành vi không cấu thành tội này mà cấu thành tội giết người.

Hậu quả bắt buộc là nạn nhân chết

Chủ quan: Lỗi có ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.

Để xác định người đó có bị đẩy đến tình trạng bị kích động mạnh hay chưa mạnh về tinh thần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, xem xét một cách toàn diện các tình tiết cụ thể về vụ án, nhân thân của người phạm tội, quá trình diễn biến của sự việc, trình độ văn hóa, bệnh tật, hoàn cảnh gia đình,… từ đó mới có thể xác định mức độ bị kích động về tinh thần có mạnh hay không, mạnh đến mức nào.Như thông tin được cung cấp việc để ngôi nhà bị thanh lý người phạm tội đã hoàn toàn chấp nhận và chỉ muốn lấy lại số tiền đã thanh lý được. Tuy nhiên, việc chưa trao trả ngay số tiền thanh lý của người bị hại không phải là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội. Như vậy, với hành vi không thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 125 mà sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự như sau:

Điều 123. Tội giết người

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Giết 02 người trở lên;

b) Giết người dưới 16 tuổi;

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

….

3. Hành vi vu khống qua MXH rồi đe dọa giết người ?

Kính gửi Luật sư! Tôi có vấn đề nhờ Luật sư của LVN Group tư vấn. Năm 2018 cha tôi ngoại tình với một người đàn bà đã ly hôn, gia đình tôi bắt gặp tại nhà trọ, trong lúc nóng giận chị tôi có đánh cô ấy, nhưng cô ấy không bị thương tích gì. Chúng tôi đã đưa cô ấy về gia đình để giải quyết, chúng tôi có đề nghị cô ấy viết tờ cam kết là không được gặp gỡ điện thoại và quan hệ bất chính với cha tôi.
Trong quá trình viết cam kết cô ấy nhận cuộc điện thoai của cha tôi, tôi phát hiện cô ấy sử dụng điện thoại của cha tôi (điện thoại tôi cùng với cha tôi mua) nên tôi đã lấy lại. Trong lúc này chúng tôi thấy viết cam kết mà không có chính quyền thì cũng không có hiệu lực. Nên chúng tôi quyết định đến cơ quan công an thị trấn nhờ họ giải quyết. Đến đây cô ấy báo công an chúng tôi đánh cô ấy tại nhà trọ, lấy dây chuyền và điện thoại cô ấy. Viêc cô ấy có đeo dây chuyền không thì chúng tôi không biết, mà chúng tôi cũng không có lấy.​ Đến cơ quan công an, công an chỉ giải quyết hòa giải, không xử phạt hành chính. Tai đây cơ quan có bảo tôi trả lại điện thoại cho cô ấy, tôi nói điện thoại của gia đình tôi, tôi mua có hóa đơn, cô ấy im thinh không trả lời. Chúng tôi còn viết cam kết, gia đình tôi không được đánh cô ấy và cô ấy cũng không được gặp và quan hệ bất chính với cha tôi. Nhưng cô ấy làm đúng như cam kết, cô ấy vẫn thường xuyên liên lạc với cha tôi, họ còn hẹn ở quán tum, bị chị tôi và người làm bắt gặp, tai đây cô ấy đánh chị tôi trước, chị tôi nóng giận đã lấy kéo cắt tóc cô ấy.
Chúng tôi cũng đến cơ quan công an xã để giải quyết, tại đây công an cũng giải quyết hòa giải. Nhưng giờ cô ấy lại đến công an huyên tố cáo chúng tối lấy điện thoại, dây chuyền cô ấy, cắt tóc cô ấy. Điện thoại thị cha tôi đã lén lấy lại đưa cho cô ấy, cha tôi và cô ấy đều đã thừa nhận việc điện thoại đã trả cho cô ấy. Vây nay cô ấy thưa tôi, tôi có quyên kiện cô ấy tôi vu khống không?. cô ấy cũng gởi đơn đến phòng giáo dục tố cáo mẹ tôi lấy điện thoại và dây chuyền, làm ảnh hưởng danh dự uy tính của mẹ tôi, mẹ tôi có thể thưa cô ấy về tội vu khống không? Hiên nay cô ấy vẫn còn lén lúc quan hệ bất chính với cha tôi, con thúc cha tôi về ly hôn chia tài sản, về nói chị em tôi và mẹ tôi giành tài sản. Cơ quan công an cũng đã mời gia đình tôi điều tra lại sự việc.Trong trường hợp này mong Luật sư của LVN Group tư vấn giúp. Cảm ơn Luật sư của LVN Group!
Người gửi: p.t.d

>>Tư vấn Luật Hình sự trực tiếp qua số điện thoại:1900.0191

Trả lời:

1. Hành vi vu khống người khác

Việc xác định tội vu khống, căn cứ cũng như hình thức xử phạt vi phạm hình sự được quy định cụ thể trong Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 như sau:

Điều 156. Tội vu khống

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
…..2. Hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng

Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
…..
=> Như vậy, để có thể trình báo công an về hành vi của cô X về tội vu khống thì bạn cần chứng minh được chiếc điện thoại thuộc sở hữu hợp pháp của mình cùng với hành vi mà cô X đã thực hiện có thể cấu thành tội vu khống thì bạn có thể trình báo công an điều tra cấp quận/huyện nơi bạn đang cư trú về hành vi của cô X về tội vu khống. Cô X sẽ bị xử lý theo quy định tại điều này nếu vi phạm. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mẹ bạn và gia đình, bạn có thể tiến hành trình báo công an về hành vi của cô X và bố bạn về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Không nên đánh đập hay đe dọa cô X vì làm thế sẽ gây bất lợi cho bạn và cô X có thể tiến hành trình báo hoặc tố cáo bạn về hành vi đó.

4. Lấy tài sản sau khi giết người ?

Thưa Luật sư của LVN Group, xin hỏi: TA (17 tuổi), NB (18 tuổi) cùng có quan hệ yêu đương với một cô gái là Chinh. Để loại bỏ “tình địch” A đã chuẩn bị dao găm và một đoạn dây để khi cần thiết sẽ dùng giết B. Một buổi tối A hẹn B lên bờ đê để “nói chuyện”. Không thuyết phục được B từ bỏ quan hệ với Chinh nên A đã dùng dao đâm nhiều nhát làm B tử vong.

>>Luật sư tư vấn pháp luật hình sự, gọi: 1900.0191

Trả lời:

1. Về hành vi giết người:

Hành vi giết người của TA là có chuẩn bị từ trước, có sẵn mục đích, ý thức chiếm đoạt tính mạng của B. Động cơ giết người của A là để loại bỏ “tình địch” – là động cơ đê hèn của A, vì tính ích kỷ cao mà A có hành vi giết B, để được một mình yêu Chinh. Hành vi này đã phạm vào tội Giết người theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015

2. Hình phạt dành cho A:

Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

Điều 38. Tù có thời hạn

1. Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.

Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.

Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.

2. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.

TA tại thời điểm phạm tội chưa thành niên (17 tuổi), cho nên hình phạt đối với A là không quá 18 năm tù.

3. Về hành vi lấy tài sản sau khi giết người:

Mặt hình thức của tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Mặc dù ý thức chiếm đoạt của A nảy sinh sau khi thực hiện hành vi giết người nhưng lúc này, B đã chết (không thể chống cự được), cho nên hành vi này của Ađã phạm vào tội Cướp tài sản theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015

Điều 168. Tội cướp tài sản

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

Trên đây là tư vấn của Luật LVN Group về thắc mắc của bạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận Luật sư của LVN Group số: 1900.0191 để được giải đáp.

4. Trộm cắp tài sản chuyển hóa thành cướp tài sản trong trường hợp nào?

Hành vi trộm cắp tài sản nếu như bị phát hiện trong quá trình thực hiện bởi nạn nhân hoặc một chủ thể khác và trong khi giằng co giữa hai bên, người phạm tội gây thương tích cho chủ thể còn lại, thì tội danh mà họ phải nhận sẽ chuyển hóa thành tội cướp tài sản quy định trong điều 168 BLHS 2015 nếu:

“Nếu là trường hợp kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản rồi, nhưng chủ tài sản họăc người khác đã lấy lại được tài sản đó hoặc đang giành giật tài sản còn ở trong tay kẻ phạm tội, mà kẻ phạm tội dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được, thì cần định tội là cướp tài sản… Đối với các trường hợp trên đây chỉ cần kết án kẻ phạm tội về một tội là cướp tài sản… và coi việc chiếm đoạt (chưa thành hoặc đã thành) trước khi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực là tình tiết diễn biến của tội phạm”.

Vậy nên dấu hiệu quan trọng nhất để quy tội trộm cắp tài sản thành tội cướp tài sản đó chính là hành vi “tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại” nhằm mục đích “chiếm đoạt tài sản“. Điều đó khác với mục đích chỉ hành hung nạn nhân hoặc chủ thể chống cự nhằm tẩu thoát. Do đó, tất cả các hành vi diễn biến trước đó đều được coi là các tình tiết diễn biến của tội phạm chứ không phải hành vi khách quan cấu thành tội cụ thể nữa.

Ngoài ra, ở đây còn không có quy định cụ thể về tỷ lệ thương tích bao nhiêu để đủ cấu thành tội phạm mà chỉ cần người phạm tội có hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại” là đã cấu thành một hành vi khách quan trong trường hợp chuyển biến thành cướp rồi.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Hình sự – Công ty luật LVN Group.