1. Chia tài sản, trả nợ và tiền cấp dưỡng nuôi con sau khi ly ?

Kính gửi công ty Luật LVN Group, mong Luật sư của LVN Group tư vấn giúp em. E đang cần tư vấn về việc chia tài sản sau hôn nhân, mong Luật sư của LVN Group có thể giải đáp giúp em. Em và vợ cưới nhau được hơn 1 năm, có 1 con được hơn 1 tháng tuổi, nay có bất hoà trong gia đình không giải quyết được nên 2 vợ chồng ly hôn. Đã nộp đơn và chờ ngày ra toà.

Về tài sản: Sau khi kết hôn, e có xây 1 quán karaoke trị giá 1 tỷ (phần tài sản trên đất), còn đất xây là đất của hộ gia đình ba mẹ em, vẫn đứng tên hộ gia đinh em. Riêng karaoke xây ra là để kinh doanh phụ vụ đời sống gia đình 2 vợ chồng và đứng tên em.

– Phần karaoke 1 tỷ gồm: 200 triệu mượn từ gia đình vợ, 100 triệu tiền túi của riêng em, 100 triệu tiền của hồi môn 2 vợ chồng và 600 triệu tiền vay ngân hàng. Tiền vay ngân hàng 600 triệu này do em đứng tên 1 mình, thế chấp bằng tài sản hộ gia đình bên em (gồm 6 người: 2 ba mẹ và 4 đứa con, trong đó có em).

Dạ cho em hỏi:

1. Khi chia tài sản, phần xây dựng karaoke trên đất 1 tỷ phân chia như thế nào ạ? Vợ em đòi trả cho vợ 200 triệu mượn gia đình vợ, 50 triệu tiền hồi môn ( chia 2), rồi định giá karaoke được bao nhiêu chia đôi nữa. Nếu tính như vậy, thì em phải đưa vợ: 200+50+500 (tiền xây karaoke/2) = 750 triệu. E nghĩ 1 tỷ karaoke được hình thành từ nhiều nguồn (vốn tự có, vay ngân hàng…) thì chỉ định giá xong chia 2 thôi phải không ạ.?

2. Nghĩa vụ trả nợ ngân hàng 600 tr sẽ ra sao, vì tài sản thế chấp là của nhà em, nếu như trong tương lai bên vợ không trả được nợ, thì cũng không mất mát gì, vì tài sản nhà em bị thế chấp chứ không phải nhà vợ?

3. Đứa con mới có hơn 1 tháng. Vậy nghĩa vụ và trách nhiệm nuôi ra sao ạ, vợ e sẽ nuôi cháu, em sẽ chu cấp tiền bao nhiêu và tới bao nhiu tuổi ạ?

E đang cần tư vấn gấp ạ, mong Luật sư của LVN Group giúp em, em chân thành cảm ơn !

>> Luật sư tư vấn chia tài sản, nợ nần, con cái khi ly hôn, gọi: 1900.0191

Trả lời:

1. Khi chia tài sản và nghĩa vụ trả nợ:

Khoản 2, 4 Điều 219 Bộ luật dân sự 2005

”2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án”

Theo đó, trong trường hợp của bạn nếu 2 vợ chồng không có thỏa thuận gì thì Tòa án sẽ căn cứ vào những quy định nói trên để giải quyết chia tài sản đặc biệt là căn cứ tại khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.

Điều 42. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu

Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;

b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;

c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;

d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;

đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;

e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Điều 64. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh

Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác

Như vậy, vợ chồng bạn phải có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng trước khi phân chia tài sản ly hôn. Việc phân chia tài sản ly hôn mà không thực hiện nghĩa vụ trả nợ sẽ bị coi là vô hiệu. Còn phần tài sản là quán karaoke trị giá 1 tỷ thì sau khi trừ đi nghĩa vụ trả nợ và phần 200 triệu mà bạn vay gia đình vợ thì phần tài sản còn lại vợ chồng bạn có thể thảo thuận hoặc chia đôi theo quyết định của Tòa án trên cơ sở các quy định của pháp luật.

2. Nghĩa vụ và trách nhiệm nuôi con:

Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Điều 116. Mức cấp dưỡng

1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Điều 118. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng

Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;

2. Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;

3. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;

4. Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;

5. Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn;

6. Trường hợp khác theo quy định của luật.

Như vậy, do sau khi ly hôn bạn không trực tiếp nuôi con thì bạn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng con bạn hiện nay cháu 1 tháng tuổi. Mức cấp dưỡng do vợ chồng bạn thỏa thuận và căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của bạn cũng như nhu cầu thiết yếu của con bạn. Theo quy định của luật thì bạn phải cấp dưỡng con bạn khi cháu đã thành niên tức 18 tuổi.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số:1900.0191 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

2. Tư vấn về thay đổi người trực tiếp nuôi con ?

Kính chào Luật sư của LVN Group! Tôi có một số thắc mắc muốn nhờ Luật sư của LVN Group tư vấn giúp tôi như sau: Vợ chồng tôi ly hôn 2013, có 01 cháu gái là con chung nay đã 10 tuổi, hiện tôi là người trực tiếp nuôi cháu, cha cháu cấp dưỡng, cháu bị bệnh tiểu năng trí tuệ, động kinh từ nhỏ, không kiểm soát được hành vi của mình.
Bệnh tình của cháu ko thuyên giảm mà có chiều hướng gia tăng, cha cháu từ sau khi ly hôn đến giờ cứ mỗi lần vào thăm cháu là nói tôi không biết cách chăm con, làm bệnh con nặng hơn, không biết làm mẹ, chỉ làm hỏng kiếp người (là cháu), việc tôi gửi cháu ở trường chuyên biệt nhà nước cách nhà khác xa (vì không nơi nào nhận cháu) phải đưa đón thường xuyên thì được cha cháu cho là trường ko biết chăm sóc, chỉ biết nhốt cháu, cô giáo không đạo đức. Tôi thật sự mệt mỏi với những điều đó vì tôi đã cố gắng trong khả năng của mình rồi.

Gần đây cha cháu đặt vấn đề muốn nuôi con với điều kiện tôi phải sang tên lại ngôi nhà mẹ con tôi đang sinh sống sau khi cha cháu đã tặng 50% tài sản cho tôi từ năm 2011.

Cha cháu có kiến thức về đông y, bấm huyệt, có địa vị xã hội, giao tiếp rộng, có điều kiện về kinh tế, việc để cha cháu nuôi con tôi hoàn toàn tin tưởng.

Vậy tôi làm thế nào để thay đổi quyền nuôi con để cháu có được nhiều cơ hội hơn khi ở với tôi không? (tôi chỉ muốn cho cho cháu ở với cha cháu trong thời gian cháu chưa dậy thì), tôi và cha cháu không thể thỏa thuận mọi vấn đề được. Vậy mẫu đơn ra sao? hồ sơ kèm theo? và với những điều tôi nói trên thì liệu tòa có chấp nhận việc thay đổi quyền nuôi con của tôi không?

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: H.T.D

Tư vấn về thay đổi người trực tiếp nuôi con ?

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình gọi: 1900.0191

Trả lời:

1. Về cách thức thay đổi người trực tiếp nuôi con

Theo thông tin khách hàng cung cấp: Khách hàng mong muốn thay đổi quyền trực tiếp nuôi con nhưng chỉ thay đổi trong 1 khoảng thời gian nhất định. Khách hàng không thể thỏa thuận được toàn bộ vấn đề.

Về vấn đề này, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định như sau:

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.”

Về quyền yêu cầu Tòa án giải quyết đối với việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

“Điều 84. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.”

Các căn cứ nêu trên được áp dụng khi cha, mẹ thỏa thuận được về vấn đề thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Trong trường hợp này, khách hàng không thể thỏa thuận được và nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3, Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung 2011. Cụ thể:

“Điều 27. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án

3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.”

Để giải quyết yêu cầu của khách hàng, khách hàng cần làm đơn khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Nội dung đơn khởi kiện, khách hàng cần thể hiện rõ yêu cầu của mình theo đúng nguyện vọng của khách hàng tôi chỉ muốn cho cho cháu ở với cha cháu trong thời gian cháu chưa dậy thì”. Ngoài ra, khách hàng cần nêu rõ trong đơn về điều kiện, hoàn cảnh của mình hiện tại không còn đảm bảo được lợi ích tốt nhất của con nữa, cũng như điều kiện của cha để Tòa án có cơ sở giải quyết vấn đề này.

2. Về mẫu đơn khởi kiện và hồ sơ kèm theo:

Mẫu đơn khởi kiện, khách hàng làm theo mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.

Hồ sơ kèm theo đơn khởi kiện gồm:

– Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ;

– Các giấy tờ chứng minh về nhân thân người khởi kiện, người bị kiện (chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, Giấy tờ xác nhận nơi cư trú…

– Bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật về việc ly hôn;

– Giấy khai sinh của con;

– Bản kê các tài liệu nộp kèm đơn khởi kiện (có ghi rõ số lượng bản gốc, bản sao).

3. Đối với thắc mắc của khách hàng:“Liệu tòa có chấp nhận việc thay đổi quyền nuôi con của tôi ko?”

Về vấn đề này, Tòa án có chấp nhận yêu cầu của khách hàng hay không là phụ thuộc vào những vấn đề sau:

– Điều kiện nuôi con của các bên;

– Nguyện vọng của con trong trường hợp này;

– Việc giao con cho ai sẽ đảm bảo phù hợp với lợi ích của con;

– Chứng cứ do các bên cung cấp;

– Thỏa thuận của cha, me…

Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về thắc mắc của chị, cảm ơn chị đã tin tưởng Công ty Luật LVN Group.

3. Tư vấn về quyền của người không trực tiếp nuôi con ?

Kính chào Luật LVN Group, Tôi có một vấn đề mong các Luật sư của LVN Group giải đáp: Vợ chồng tôi có một con trai năm nay 5 tuổi, chúng tôi đã ly hôn tháng 8 năm 2014 và thỏa thuận để vợ tôi trực tiếp nuôi con, tôi chu cấp tiền ăn học cho cháu hàng tháng.

Trong quá trình nuôi con, cô ấy vẫn ở lại thuê nhà trọ tại quê chồng làm việc nhưng đã cắt hộ khẩu của con tôi ra khỏi hộ khẩu gia đình tôi, đồng thời không làm tạm trú cho con tôi tại địa phương nên con tôi không có tên trong danh sách hưởng các quyền lợi về tiêm chủng tại địa phương và gặp khó khăn trong quá trình nhập học tiểu học, cô ấy cố tình giấu không cho tôi biết nơi cháu được nhập hộ khẩu thường trú.

Xin hỏi tôi có quyền yêu cầu được biết nơi hiện tại con tôi nhập hộ khẩu thường trú không ? Nếu cô ấy cố tình không cung cấp thông tin nơi thường trú của con tôi thì tôi phải nộp đơn tại đâu để được biết thông tin về con mình ? Nếu muốn giành lại quyền nuôi con thì tôi phải thỏa mãn những điều kiện gì ?

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: D.K.Q

Tư vấn về quyền của người không trực tiếp nuôi con ?

Tư vấn về quyền của người không trực tiếp nuôi con,gọi:1900.0191

Trả lời:

Điều 82, 83 của Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:

Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”

” Điều 83. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.”

Như vậy, anh là người không trực tiếp nuôi con nhưng căn cứ theo luật HNGĐ, anh có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và người mẹ của cháu bé không được cản trở. Theo đó, anh có quyền được biết nơi mẹ cháu bé đăng ký hộ khẩu cho cháu.

Giải quyết vấn đề:

Trước hết anh nên giải thích cho vợ hiểu việc không cung cấp cho anh nơi đăng ký thường trú của cháu cho mình là hành vi vi phạm pháp luật về Hôn nhân và gia đình cũng như bày tỏ quan ngại của mình về vấn đề cháu không được hưởng các quyền lợi tại địa phương mà cháu đang cư trú. Mặt khác, anh có thể liên lạc với cơ quan hộ tịch của xã, phường, thị trấn nơi con anh cư trú cuối cùng để đề nghị được xem xét hồ sơ lưu trữ về việc con anh chuyển nơi thường trú. Các cán bộ hộ tịch ở đó sẽ cung cấp cho anh các thông tin cần thiết khi anh trình bày được lý do của mình. Anh có thể biết nơi con mình đăng ký thường trú hiện tại thông qua cách này.

Về việc chuyển người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định tại điều 84 của luật HNGĐ:

Điều 84. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.”

Theo đó, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con do hai bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được bạn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết bằng việc cung cấp những căn cứ chứng minh bạn có thể đảm bảo quyền lợi của con tốt hơn vợ. Qua đó, Tòa sẽ xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng.

Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn dịch vụ tư vấn của Công ty Luật LVN Group! Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, Quý khách hàng vui lòng trao đổi trực tiếp với đội ngũ Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình trực tuyến qua tổng đài điện thoại: 1900.0191để nhận được sự hỗ trợ, giải đáp chi tiết, cụ thể cho từng trường hợp pháp lý khác nhau.

4. Tư vấn về thay đổi quyền trực tiếp nuôi con ?

Chào Luật sư của LVN Group ! Tôi và vợ đã ly hôn có 1 đứa con 1 tuổi được tòa án xét xử đúng theo quy trình pháp luật. Giờ tôi đã xây dựng gia đình và đã có con.Tôi vẫn trợ cấp nuôi con theo pháp luật. Giờ vợ của tôi yêu cầu tòa thay đổi quyền cấp dưỡng. Tôi không đồng ý vì tôi cũng muốn giành quyền nuôi con,không yêu cầu cô ấy cấp dưỡng. Còn giờ tôi không đủ điều kiện như cô ấy yêu cầu. Cô ấy giờ cứ quấy rối,dọa nạt,thuê xã hội vào đập tôi. Tôi đã báo với chính quyền địa phương can thiệp mà vẫn không được.
Tôi muốn hỏi giờ tôi phải gì để không phải làm sai pháp luật ?

Tư vấn về thay đổi quyền trực tiếp nuôi con ?

Luật sư tư vấn luật hôn nhân về quyền nuôi con, gọi: 1900.0191

Luật sư tư vấn:

Theo quy định tại điều 84 Luật hôn nhân gia đình 2014 có quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con như sau :

“Điều 84. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ”.

Căn cứ vào quy định này thì anh có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu như anh cảm thấy vợ anh không đủ điều kiện để chăm sóc con của hai người. Còn trường hợp vợ anh yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng thì vợ anh cần phải căn cứ vào thu nhập thực tế của anh. Trong trường hợp này thì anh sẽ làm đơn phản đối và sẽ kê khai ra mức thu nhập của anh nếu chu cấp như vậy sẽ không đảm bảo cho mức sống tối thiểu của anh nên anh mong được giữ mức trợ cấp như cũ. Tham khảo bài viết liên quan: Tư vấn về tiền cấp dưỡng cho con sau ly hôn ? Mức trợ cấp nuôi con khi ly hôn là bao nhiêu ?

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

5. Tranh chấp nuôi con khi chồng chung sống như vợ chồng với người khác ?

Kính chào Luật sư của LVN Group! Tôi có một số thắc mắc muốn nhờ Luật sư của LVN Group tư vấn giúp tôi như sau: Trong trường hợp vi phạm luật hôn nhân, biết người mình đang chung sống đã có vợ nhưng vẫn giữ mối quan hệ thì có bị phạt không? Còn người chồng không muốn hòa giải, cũng chưa ly hôn và cũng chưa bị phạt hành chính nhưng vẫn giữ mối quan hệ và công khai với họ hàng bên nội vậy có bị phạt không? và nếu có thì phạt như thế nào?

Người vợ có được toàn quyền nuôi con không? (2 trẻ > 36 tháng tuổi rồi và thu nhập của người vợ không bằng chồng).

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: C.P

>> Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình, gọi: 1900.0191

Trả lời:

1. Về xử phạt hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng

Theo quy định của pháp luật thì trường hợp này chồng của chị và người đang có quan hệ chung sống như vợ chồng với chồng chị (Tạm gọi là A) được coi là việc nam nữ chung sống như vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

Chung sống như vợ chồnglà việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.”

Và hành vi chung sống như vợ chồng này của A và chồng chị được coi là hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng và phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Theo đó, Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP có quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng như sau:

Điều 48. Hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; Vi phạm quy định về ly hôn

1.Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với mộ trong các hành vi sau:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;”

Như vậy, Theo quy định tại Điều 48 Nghị định 110/2010/NĐ-CP thì cả chồng chị và A đều bị xử phạt từ 1.000.000 (một triệu) đồng đến 3.000.000 (ba triệu) đồng vì có hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.

Ngoài ra, nếu chồng chị hoặc A đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chung sống như vợ chồng mà vẫn còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý Theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009:

Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

Nội dung Điều 147 nêu trên được hướng dẫn tại Mục 3 Thông tư số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC như sau:

3. Về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS)

3.1. Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…

3.2. Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng.

Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v…

b) Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.”

Như vậy, qua phân tích nêu trên, tùy mức độ vi phạm mà chồng chị và A có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng.

2. Về quyền nuôi con khi ly hôn

“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Pháp luật không quy định cụ thể về các tiêu chí để xác định quyền nuôi con, chỉ quy định là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con để Tòa án quyết định giao con cho người nào trực tiếp nuôi dưỡng. Vì cả hai con của chị đều trên 36 tháng tuổi nên quyền nuôi con của cha và mẹ là ngang nhau. Khi xảy ra tranh chấp thì Tòa án sẽ căn cứ vào điều kiện mọi mặt của con bao gồm: điều kiện kinh tế (Có công việc và thu nhập ổn đinh), tâm lý tình cảm (thân thiết, quan tâm chăm sóc con, đảm bảo được việc phát triển bình thường về tâm lý của con), thời gian (Có đủ thời gian để chăm sóc con, ví dụ: Có thời gian đưa con đi học, đón con về, đưa con đi chơi), sức khỏe (khỏe mạnh, không mắc bệnh hiểm nghèo hoặc những bệnh mãn tính, bệnh gây suy giảm khả năng lao động), phẩm chất đạo đức (phẩm chất đạo đức tốt, đảm bảo được nuôi dạy con phát triển đúng hướng, không phải chấp hành bản án, hoặc không bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị kết án về hành vi bạo hành gia đình, hoặc ngược đãi con).

Pháp luật có quy định trong một số trường hợp sau thì Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con như sau:

“1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:

a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;

b) Phá tán tài sản của con;

c) Có lối sống đồi trụy;

d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”

Do chị cung cấp thông tin chưa đầy đủ, nên không thể xác định được chồng chị có bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên hay không? Theo đó, nếu chồng chị không thuộc các trường hợp bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì khi có tranh chấp Tòa án sẽ căn cứ vào điều kiện của mỗi bên mà quyết định giao con cho bên nào có những điều kiện tốt để nuôi con.

Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về thắc mắc của chị, cảm ơn chị đã tin tưởng Công ty Luật LVN Group

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hôn nhân – Công ty luật Minh KHuê