1. Lý thuyết lựa chọn công

Phân phối phần chia từ thu thuế như vừa nêu là đặc điểm quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa công cộng, vì bất kỳ cá nhân nào đều yêu cầu một hàng hóa trên cơ sở giá trị (biên tế) và phí tổn. “Phí tổn biên tế” đơn thuần là phần chia thu từ thuế mà người tiêu dùng- công dân đóng thuế cho một phần đầu ra của mình, vấn đề quan trọng trong chọn lựa công của một hàng hóa công cộng bất kỳ như thế, đối với một số lượng duy nhất sản xuất ra, một số phân phối gánh nặng thuế má có thể tìm thấy việc đánh đồng đánh giá biên tế hàng hóa với phân chia hưởng từ thu thuế biên tế đối với mỗi người tiêu dùng-công dân. Hai tác giả đầu tiên viết về lựa chọn công, Erik Lindahl và Knut Wicksell, đều quan tâm đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề này và hình thành những cách phân tích khác nhau trong lý thuyết lựa chọn công hiện đại.

2. Xuất thân của Knut Wicksell

Wicksell sinh ra tại Stockholm vào ngày 20 tháng 12 năm 1851. Cha của ông là một doanh nhân và nhà môi giới bất động sản tương đối thành công. Ông mất cả cha lẫn mẹ khi còn khá sớm. Mẹ ông mất khi anh mới sáu tuổi và cha ông mất khi anh mười lăm tuổi. Gia sản đáng kể của cha ông cho phép ông ghi danh vào Đại học Uppsala vào năm 1869 để nghiên cứu toán học và vật lý.

Ông nhận bằng đầu tiên trong hai năm, và ông tham gia vào các nghiên cứu sau đại học cho đến năm 1885, khi ông nhận bằng tiến sĩ toán học. Năm 1887, Wicksell nhận được học bổng để nghiên cứu về Lục địa, nơi ông đã nghe các bài giảng của nhà kinh tế học Carl Menger ở Vienna. Trong những năm tiếp theo, sở thích của ông bắt đầu chuyển sang các ngành khoa học xã hội, đặc biệt là kinh tế học.

3. Giảng viên

Khi còn là giảng viên tại Uppsala, Wicksell thu hút sự chú ý vì những quan điểm của mình về lao động. Tại một buổi diễn thuyết, ông đã lên án việc say rượu và mại dâm là xa lánh, xuống cấp và bần cùng. Mặc dù đôi khi ông được coi là một người theo chủ nghĩa xã hội, nhưng giải pháp của ông cho vấn đề này là Malthusian quyết định ủng hộ việc kiểm soát sinh sản, điều mà ông sẽ bảo vệ đến cuối đời. Những ý tưởng rực lửa của ông đã thu hút một số sự chú ý, nhưng tác phẩm đầu tiên của ông về kinh tế, Giá trị, Vốn và Tiền thuê (1892), hầu như không được chú ý. Năm 1896, ông xuất bản Nghiên cứu về lý thuyết Tài chính công và áp dụng các ý tưởng của chủ nghĩa cận biên vào việc đánh thuế lũy tiến, hàng hóa công và các khía cạnh khác của chính sách công, thu hút nhiều sự quan tâm hơn.

Wicksell kết hôn với Anna Bugge vào năm 1887. Kinh tế ở Thụy Điển vào thời điểm đó được giảng dạy như một phần của trường luật, và Wicksell đã không thể giành được một chiếc ghế cho đến khi ông được cấp bằng luật. Theo đó, ông trở lại Đại học Uppsala, nơi ông hoàn thành khóa học 4 năm về luật thông thường trong hai năm, và ông trở thành phó giáo sư tại trường đại học đó vào năm 1899. Năm tiếp theo, ông trở thành giáo sư chính thức tại Đại học Lund, nơi anh ấy sẽ đảm nhận công việc có ảnh hưởng nhất của mình.

Sau khi thuyết trình vào năm 1908 châm biếm sự ra đời của Đức Trinh Nữ của Chúa Giê- su, Wicksell bị coi là phạm tội báng bổ và bị bỏ tù hai tháng vào năm 1910.

Năm 1916, ông nghỉ hưu tại Lund và đảm nhận vị trí tại Stockholm, cố vấn cho chính phủ về các vấn đề tài chính và ngân hàng. Tại Stockholm, Wicksell đã liên kết mình với các nhà kinh tế học vĩ đại trong tương lai của cái gọi là ” Trường phái Stockholm “, chẳng hạn như Bertil Ohlin, Gunnar Myrdal và Erik Lindahl. Ông cũng dạy một Dag Hammarskjöld trẻ tuổi, Tổng thư ký tương lai của Liên Hợp Quốc.

Wicksell mất năm 1926 khi đang viết tác phẩm cuối cùng về lý thuyết quan tâm.

4. Tài chính công Wicksell

Nhà kinh tế học kiêm cải cách người Thụy Điển, Knut Wicksell có lẽ là người đầu tiên khởi xướng quan trọng nhất sự lựa chọn công đương đại. Trong tiểu luận khá dài của ông năm 1896, “A New Principle of Just Taxation,” Wicksell công kích những tiếp cận chính thống trong tài chính công và đồng thời đặt nền móng cho cả hai lựa chọn quy phạm và tích cực. Trong vấn đề liên quan bộ phận tư nhân nên đạt đến quyết định như thế nào, Wicksell nhấn mạnh tính chất đối ngẫu trong mặt tài chính của nền kinh tế. Theo quan điểm của ông, bình luận quy phạm liên quan đến ảnh hưởng phúc lợi của các hệ thống thuế thay thế, đều không giá trị trừ phi mặt chi tiêu của tài chính (lợi ích đối với người đóng thuế) được nghiên cứu cùng lúc. Như giáo sư Buchanan đã nêu rõ:

“Quan trọng nhất, Wicksell khiển trách các nhà kinh tế học vì không thừa nhận thực tế cơ bản mà các quyết định tập thể hay khu vực công phát sinh từ một quá trình chính trị hơn là từ suy nghĩ của một số kẻ chuyên quyền nhân từ”. (Public Finance and Public Choice, trang 385).

Như tiêu đề bài thuyết trình nổi tiếng của mình, Wicksell quan tâm nhất vấn đề chế độ tài chính phù hợp với công bằng và hiệu quả. Theo quan điểm của ông sự công bằng và hiệu quả yêu cầu sự nhất trí giữa các bên tham gia vào quyết định khu vực công. Wicksell giải thích vấn đề minh bạch:

“Khi bàn lợi ích thật vất vả đến mức không thể diễn đạt bằng số, mỗi người sau cùng chỉ nói về chính bản thân mình. Đây là vấn đề tương đối kém quan trọng nếu tình cờ một số cá nhân kiếm được thu nhập có phần lớn hơn người khác với điều kiện mỗi người đều có thu nhập và không ai cảm thấy bị bóc lột từ quan điểm rất cơ bản này. Nhưng nếu công bằng không đòi hỏi nhiều hơn nữa, thì chắc chắn sẽ không đòi hỏi ít hơn. Trong phân tích sau cùng, sự nhất trí và đồng ý hoàn toàn tự nguyện trong việc ra quyết định cung cấp một sự bảo đảm duy nhất chắc chắn và rõ ràng chống lại bất công trong phân phối thuế. Toàn bộ thảo luận về mức thuế công bằng vẫn còn treo lơ lửng với điều kiện những điều kiện này không được thỏa mãn ít nhất là ở mức phỏng chừng (A New Principle, trang 90).

Hoạt động tĩnh theo quan điểm của Wicksell vì thế phải là hoạt động hữu ích chung, và hơn nữa, sự mất mát phải nhiều hơn so với hiệu dụng dự đoán của dự án. Liệu cá nhân có ủng hộ một dự án hay không tùy thuộc vào số lượng các biến số, nghĩa là lập trường của một người trong phân phối thu nhập, sở thích tương đối của cá nhân so với tiêu dùng công và đánh giá chủ quan dự án công. Sự phân phối mức giá phí tổn theo quy định của nhà nước sẽ quyết định liệu dự án có được phê chuẩn hay không. Một số phân phối phí tổn sẽ giành được sự chấp thuận của đa số và những phân phối khác thì không. Trong công kích chống lại sự phân phối thuê’ “độc đoán”, Wicksell cho rằng việc trợ cấp tài chính thay thế và đề xuất chi tiêu nên dành cho công chúng bỏ phiếu. Sau đó Wicksell cho rằng theo lý thuyết có thể tìm thấy sự phân phối phí tổn tạo ra sự nhất trí. Bất kỳ kết quả khác sẽ cung cấp theo lời Wicksell:

“Bằng chứng có thể duy nhất mà hoạt động tĩnh đang nghiên cứu sẽ không cung cấp hiệu dụng cho cộng đồng tương ứng với sự mất mát cần thiết và do đó nên được phủ nhận trên cơ sở hợp lý (A New Principle, trang 90).

Mặc dù không có nguyên tắc khác “công bằng” theo khái niệm tích cực của Wicksell, ông vẫn công nhận rằng sự nhất trí, mặc dù lý tưởng, không được dự đoán trong bất kỳ tình huống thực tế. Khi ấy xã hội đối mặt với “Những tổ chức phi lợi nhuận được tài trợ… bằng sự dành riêng hay trợ cấp định kỳ”. (Bureaucracy and Representative Government, trang 15).

Về bản chất, tổng ngân sách được chuyển thành mức tổng đầu ra, vì điều chỉnh biên tế không khả thi trong bối cảnh quan liêu. Một trong (nhiều) ẩn ý của mô thức là trong nỗ lực tối đa hóa ngân sách (vì thế là ngân sách của cơ quan quan liêu), các nhà cung cấp “ngốn hết” số tiền trả trội của người tiêu dùng do cung cấp hàng hóa công cộng mang lại. Sự phát triển tuyệt đối của chế độ quan liêu cũng là ngụ ý hiển nhiên của lý thuyết này. Vả lại có những trở ngại trong việc tích hợp các lý thuyết nhu cầu hàng hóa công cộng và khái niệm cung của Niskanen thành một “mô thức cân bằng tổng quát”. Mô thức của Niskanen kích thích nhiều nghiên cứu trong, “vấn đề cung” và trở thành đề tài nghiên cứu phát triển liên tục trong kinh tế học lựa chọn công.

5. Kết luận

Các yếu tố trong chính sách công của ông đã được chính phủ Thụy Điển chú trọng, bao gồm quy tắc nhắm mục tiêu theo mức giá của ông trong những năm 1930 (Jonung 1979) và tầm nhìn của ông về một nhà nước phúc lợi. Những đóng góp của Wicksell đối với kinh tế học đã được một số nhà kinh tế học, bao gồm cả nhà sử học kinh tế học Mark Blaug, mô tả là nền tảng cho kinh tế học vĩ mô hiện đại. Michael Woodford đã đặc biệt ca ngợi chủ trương của Wicksell trong việc sử dụng lãi suất để duy trì sự ổn định giá cả, lưu ý rằng đó là một cái nhìn sâu sắc đáng chú ý khi hầu hết các chính sách tiền tệ đều dựa trên bản vị vàng. (Woodford, 2003, trang 32). Woodford gọi khuôn khổ của riêng mình là ‘tân Wicksellian’, và ông đặt tiêu đề cho cuốn sách giáo khoa của mình về chính sách tiền tệ để tỏ lòng tôn kính công trình của Wicksell.

Lựa chọn công tích cực thu được nhiều ngụ ý và mở rộng có thể kiểm nghiệm. Các nhà kinh tế học, nhất là sau năm 1970, đã nỗ lực mở rộng và dự đoán thực nghiệm một số vấn đề này. Một khối lượng tài liệu đồ sộ, trong số này có thể gọi là “lựa chọn công thực nghiệm” phát triển(9). Danh sách đóng góp nghiên cứu trong những vấn đề này rất dài và luôn xoáy vào những chủ đề như (1) kinh tế học đóng góp vận động là gì và chúng ảnh hưởng ra sao đến sự cạnh tranh chính trị, (2) tư lợi dẫn đến thời gian kéo dài nhiệm kỳ và nguyên tắc kế vị ra sao, (3) bộ máy tư pháp độc lập ảnh hưởng hành vi của cartel ra sao, (5) sự liên minh như thế nào và tại sao được hình thành trong cơ quan lập pháp và (6) tại sao cơ quan lập pháp tiểu bang và liên bang lại có nhiều Luật sư của LVN Group trong tư cách những người đại diện nhiều hơn nghề khác. Toàn bộ nhánh tài liệu đã và đang phát triển về “chu kỳ kinh doanh chính trị”, nghĩa là chính trị gia tư lợi hành động như thế nào trong sự hạn chế bầu lại có thể là nguyên nhân gây ra dao động lạm phát, thu nhập và việc làm.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)