1. Khái niệm kênh đào quốc tế

Kênh đào quốc tế là kênh đào nối liền các biển và đại dương riêng biệt để sử dụng cho hàng hải quốc tế.

Mặc dù kênh đào quốc tế là bộ phận lãnh thổ của quốc gia nhất định nhưng do vị trí đặc biệt của chúng nên việc điều chỉnh pháp lí các hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trong khu vực kênh đào cũng có điểm đặc thù nhất định. Vì vậy, thực tiễn quốc tế đã hình thành một số những quy định thừa nhận quyển tự do qua lại vô hại cho tàu, thuyền, phương tiện bay của các nước khi hoạt động ở vùng nước của kênh đào và vùng trời phía trên vùng nước đó.

Trong số các kênh đào quốc tế hiện nay có hai kênh đào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lưu thông hàng hải quốc tế là kênh đào Xuyê và kênh đào Panama.

Kênh đào Xuyê dài 162,5 km nằm trên lãnh thổ Ai Cập nối giữa Địa Trung Hải và Biển Đỏ được đào vào thế kỉ XIX (khởi công vào tháng 4.1859 và hoàn thành vào tháng 11.1869). Đây là điểm giao thông trọng yếu giữa Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.

Quy chế pháp lí của kênh đào Xuyê được quy định trong Công ước Côngxtantinôp năm 1888. Theo quy định qủa Công ước này, kênh Xuyê phải mở ra cho tàu thuyền của tất cả các nước được tự do qua lại trong thời bình cũng như trong thời chiến, thậm chí, ngay cả khi Ai Cập là một trong các bên tham chiến. Chính phủ Ai Cập được áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo an toàn và duy trì trật tự cho các hoạt động của tàu thuyền tại khu vực kênh đào.

Tuyên bố quốc hữu hoá kênh đào Xuyê của Tổng thống Ai Cập ngày 26.7.1956 quy định: Ai Cập vẫn tiếp tục tuân thủ các quy định của Công ước năm 1888.

Kênh đào Panama nằm trên lãnh thổ nước Cộng hòa Panama nối giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Kênh dài 68 km, được khởi công vào năm 1883 khi vùng này vẫn thuộc lãnh thổ Colombia. Đến năm 1899, việc đào kênh phải dừng lại vì những khó khăn về tài chính. Ngày 04.11.1903, Panama tách khỏi Côlômbia và trở thành quốc gia độc lập. Theo thoả thuận giữa Mĩ và Panama, kênh tiếp tục được đào và đã hoàn thành vào tháng 8.1914.

Theo các văn bản pháp lí quốc tế về kênh đào Panama thì kênh đào phải được trung lập vĩnh viễn và phải được mở cho tàu thuyền của tất cả các nước tự do qua lại vô hại…

2. Văn bản quy phạm điều chỉnh chế độ giao thông hàng hải quốc tế

Chế độ giao thông hàng hải quốc tế ở các kênh đào quốc tế được điều chỉnh bằng các hiệp định quốc tế ví dụ như. kênh đào Xuyê, kênh đào Panama hoặc chỉ bằng pháp luật trong nước của quốc gia có chủ quyền đối với sông đào như kênh đào Kin (Kil). Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp, chế độ pháp lí của một con kênh khi đã được thừa nhận là kênh đào quốc tế cần phải chú ý đến lợi ích giao thông hàng hải quốc tế.

Ví dụ: Chế độ pháp ly của kênh đào Kil hiện nay do Cộng hòa liên bang Đức quy định và kênh được mở cho tàu buôn của tất cả các nước, còn việc qua lại của tàu chiến thì phải qua thủ tục xin phép.

3. Mười (10) kênh đào dài nhất thế giới

Đại Vận Hà

Chiều dài kênh đào: 1794 km

Đại Vận Hà là một trong những kênh đào có lịch sử lâu đời nhất trên thế giới. Đại Vận Hà đi qua các thành phố và tỉnh ở Trung Hoa lục địa là Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô và Chiết Giang.

Với khoảng hơn 2.500 năm, kênh đào này đã đóng một vai trò rất lớn trong sự phát triển và cầu nối giao lưu kinh tế văn hóa giữa các khu vực phía bắc và phía nam của Trung Quốc, đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế công nông nghiệp dọc theo kênh.

Kênh đào Erie

Chiều dài kênh đào Erie là 584 km (363 dặm), chiều rộng kênh là 12 mét (39 feet), sâu 1,2 m (4 feet). Toàn bộ kênh đào tổng cộng có 83 đập nước.

Kênh đào Erie là phương tiện giao thông đầu tiên Bờ Đông Hoa Kỳ và vùng đất liền phía Tây, nhanh hơn nhiều so với các xe kéo chạy bằng động vật được sử dụng phổ biến nhất vào thời điểm đó. Kênh Erie không chỉ tăng tốc độ vận chuyển mà còn giảm hầu hết chi phí vận chuyển ở khu vực ven biển và đất liền. Giao thông kênh nhanh làm cho phần phía tây của New York dễ tiếp cận hơn.

Kênh đào Suez

Chiều dài kênh đào: 193.3 km

Kênh đào Suez được xây dựng năm 1869. Đây là một trong những tuyến đường được sử dụng thường xuyên nhất trên thế giới. Đó là ranh giới giữa Châu Á và Châu Phi và là kênh đào chính cho những người từ Châu Á và Châu Phi.

Kênh đào Albert

Chiều dài kênh đào: 129,5 km

Kênh đào Albert được xây dựng vào năm 1939. Nơi hẹp nhất là 24 mét và nước cạn nhất là 5m, được xây dựng vào năm 1930 và hoàn thành vào năm 1939.

Kênh đào Moscow

Chiều dài kênh đào: 128.1 km

Đây là một công trình thủy lợi đồ sộ và phức tạp. Có nhiều đập nước lớn, trạm bơm nước, cống, đường hầm sông,…Kênh đào Moscow đã rút ngắn khoảng cách hành trình giữa Moscow và Nizhny Novgorod, Moscow và St. Petersburg lần lượt là 110 km và 1.100 km.

Kênh đào Volga-Don

Chiều dài kênh đào: 101 km

Kênh đào Volga-Don nằm ở bang Volgograd ở miền tây nước Nga. Việc xây dựng kênh đào bắt đầu vào năm 1948 và hoàn thành vào năm 1952.

Kênh đào Kiel

Chiều dài kênh đào: 98,26 km

Kênh đào kết nối biển Bắc đến biển Baltic. Nước Đức sửa kênh đào này, nhằm giúp các tàu chiến thiết giáp hạm có thể đi từ biển Baltic đến biển Bắc và ngược lại mà không cần vòng qua Đan Mạch. Giúp hành trình từ biển Bắc đến biển Baltic ngắn lại 756 km

Kênh Göta

Chiều dài kênh đào: 190,5 km

Kênh Göta là một kênh đào được xây dựng vào đầu thế kỷ 19, nó được tạo thành từ nhiều hồ nước, đường sông và lượng lớn nhân công đào. Bản thân kênh đào dài 190,5 km, trong đó 87 km được đào nhân tạo, rộng 15 mét và sâu 3 mét.

Kênh đào Panama

Chiều dài kênh đào: 81,3 km

Kênh đào Panama nằm ở quốc gia Trung Mỹ Panama, cắt ngang eo đất Panama, nối liền Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, là một kênh vận chuyển đường thủy quan trọng.

Kênh đào Manchester Ship

Chiều dài kênh đào: 58 km

Kênh đào Manchester là một kênh đào ở phía tây bắc nước Anh. Nó dài 58 km, rộng 14-24 mét và sâu 9 mét. Nó bắt đầu được sửa chữa vào năm 1887 và được mở vào năm 1894.

4. Lịch sử kênh đào Panama – kênh đào dài nhất thế giới

Chính phủ mới của Panama đã ủy quyền cho doanh nhân Pháp Philippe Bunau-Varilla đàm phán một hiệp ước với Hoa Kỳ. The Hay-Bunau-Varilla Hiệp ước cho phép Mỹ để xây dựng kênh đào Panama và quy định kiểm soát vĩnh viễn của một khu vực rộng năm dặm ở hai bên bờ kênh.

Mặc dù người Pháp đã cố gắng xây dựng một con kênh trong những năm 1880, kênh đào Panama được xây dựng thành công từ năm 1904 đến năm 1914. Một khi các kênh đã được hoàn tất Mỹ đã tổ chức một vùng đất chạy khoảng 50 dặm qua eo đất Panama.

Việc chia cắt đất nước Panama thành hai phần bởi lãnh thổ Hoa Kỳ trong Khu Kênh đào đã gây ra căng thẳng trong suốt thế kỷ 20. Ngoài ra, Khu kênh đào khép kín (tên chính thức của lãnh thổ Hoa Kỳ ở Panama) đóng góp rất ít vào nền kinh tế Panama. Cư dân của Vùng kênh đào chủ yếu là công dân Hoa Kỳ và người Tây Ấn làm việc trong Vùng và trên kênh.

Sự tranh chấp bùng lên vào những năm 1960 và dẫn đến các cuộc bạo loạn chống Mỹ. Chính phủ Mỹ và Panama bắt đầu hợp tác với nhau để giải quyết vấn đề lãnh thổ. Năm 1977, Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter đã ký một hiệp ước đồng ý trả lại 60% Khu vực Kênh đào cho Panama vào năm 1979. Kênh đào và phần lãnh thổ còn lại, được gọi là Khu vực Kênh đào, đã được trao trả cho Panama vào trưa (giờ địa phương Panama) vào tháng 12. Ngày 31 năm 1999.

Ngoài ra, từ năm 1979 đến năm 1999, Ủy ban Kênh đào Panama chuyển tiếp hai quốc gia đã điều hành kênh đào, với một nhà lãnh đạo người Mỹ trong thập kỷ đầu tiên và một quản lý người Panama trong thập kỷ thứ hai. Quá trình chuyển đổi vào cuối năm 1999 diễn ra rất suôn sẻ, đến năm 1996, hơn 90% nhân viên của kênh là người Panama.

Hiệp ước năm 1977 đã thiết lập kênh đào như một tuyến đường thủy quốc tế trung lập và ngay cả trong thời kỳ chiến tranh, bất kỳ tàu thuyền nào cũng được đảm bảo qua lại an toàn. Sau khi bàn giao năm 1999, Mỹ và Panama cùng nhau chia sẻ nhiệm vụ bảo vệ kênh đào.

Vào tháng 9 năm 2007, dự án mở rộng kênh đào Panama trị giá 5,2 tỷ đô la đã bắt đầu. Hoàn thành và đi vào hoạt động vào ngày 26 tháng 6 năm 2016, dự án mở rộng Kênh đào Panama cho phép tàu có kích thước gấp đôi Panamax hiện tại đi qua kênh, làm tăng đáng kể lượng hàng hóa có thể đi qua kênh.

5. Ý nghĩa của kênh đào Panama với hoạt động hàng hải quốc tế

Trong một trăm năm hoạt động vừa qua, kênh đào Panama đã trở thành cửa ngõ chiến lược của ngành vận tải đường biển. Hàng năm có tới 14 ngàn tàu thuyền, gần 300 triệu tấn hàng đi qua đây. Tất cả các cỡ tàu thuyền đều có thể đi ngang qua kênh đào, từ du thuyền đến những chiếc tàu chở hàng cồng kềnh có kích thước tối đa theo chuẩn mực gọi là Panamax. Trung bình mỗi ngày có tới 40 tàu thuyền sử dụng con kênh này.

Khoảng 5% giao thương đường biển của thế giới, và nếu không kể tàu chở dầu thì có tới 20% hàng hóa của toàn cầu phải đi qua con kênh này. Công trình xây dựng nói trên bảo đảm đến gần 10% thu nhập của nhà nước Panama.

Ngoài tầm mức quan trọng của kênh đào Panama với các hoạt động thương mại bằng đường biển, công trình này còn là một địa điểm du lịch có tiềm năng. Đây là nơi rất nhiều du thuyền tham quan vùng Alaska với vùng biển Caribê phải đi qua và tàu thường dừng lại ở cảng Panama.

Nhờ kênh đào, Panama đang từ một quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của Hoa Kỳ trở thành hải cảng quốc tế. Cơ sở hạ tầng được nâng cấp qua vốn đầu tư của Mỹ, Trung Quốc Đài Loan, Mêhicô và của châu Âu. Đặc biệt là kể từ khi giành lại được quyền khai thác con kênh, Panama đã trở thành một địa điểm phân phối hàng hóa quan trọng của thế giới, một chặng then chốt và chiến lược của ngành vận tải đường biển.

Bước đột phá của kênh đào Panama trước hết là về mặt kỹ thuật: Các kỹ sư Pháp rồi Mỹ ở vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã sử dụng hệ thống khóa nước cho phép điều chỉnh mực nước giúp cho tàu thuyền có thể dễ dàng di chuyển tại những vùng có chênh lệch về mực nước.

Với kênh đào Panama các âu tàu được thiết kế đã cho phép nâng mực nước biển Caribe lên gang với mực nước của hồ Gatun, khắc phục được cách biệt có thể lên tới đến 26m. Thế rồi khi tàu hướng về Thái Bình Dương thì lại phải hạ mực nước xuống để ngang tầm với mực nước biển ở Thái Bình Dương.

Luật Minh KHuê (tổng hợp & phân tích)