NỘI DUNG TƯ VẤN:

1. Khái niệm thi hành hình phạt tù

Thi hành hình phạt tù là buộc người bị kết án phạt tù phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong thời hạn được quyết định trong bản án. Thống kê các cấu thành tội phạm trong BLHS hiện hành cho thấy, có gần 100% khung hình phạt có quy định hình phạt tù. Thực tiễn áp dụng hình phạt nước ta trong những năm gần đây cũng cho thấy rằng hàng năm có từ 70% đến 80% số bị cáo bị kết án phạt tù. Như vậy, thi hành hình phạt tù là bộ phận hết sức quan trọng trong thi hành án hình sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 BLTTHS thì “Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kê từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Toầ án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án”. Khoản 1 Điều 257 BLTTHS quy định “Cơ quan Công an thi hành hình phạt trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tham gia Hội đồng thi hành hình phạt tử hình theo quy định tại Điều 259 của Bộ luật này”. Từ những quy định trên đây, có thể thấy thi hành hình phạt tù có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, là hoạt động của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm đưa những người bị kết án tù đi chấp hành hình phạt tại trại giam và tổ chức thực hiện các biện pháp cải tạo giáo dục nhằm giúp họ nhanh chóng trở thành người lương thiện. Cơ quan và cá nhân có thẩm quyền thi hành hình phạt tù được nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người bị kết án tù phải chấp hành hình phạt tại trại giam. Đối với người bi kết án tù nếu không chịu chấp hành hình phạt sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 304 BLHS, còn đối với người bị kết án tù đang tại ngoại mà không có mặt để đến trại giam chấp hành án sẽ bị áp dụng biện pháp áp giải. Do vậy, thi hành hình phạt tù là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước;

Thứ hai, một trong những đặc điểm của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan thi hành hình phạt tù nói riêng là hoạt động theo trật tự pháp lý, tức pháp luật quy định thẩm quyền và trình tự thực hiện thẩm quyền thi hành án hình sự. Như vậy, hoạt động thi hành án hình phạt tù không những mang tính quyền lực nhà nước mà còn mang tính thủ tục pháp lý, tức là được tiến hành theo trình tự thủ tục được quy định trong pháp luật về thi hành hình phạt (BLTTHS; Pháp lệnh thi hành án phạt tù, Quy chế trại giam…);

Thứ ba, là hoạt động của các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền nhằm đưa người bị kết án tù có thời hạn đến chấp hành hình phạt tại trại giam và tổ chức thực hiện các biện pháp cải tạo, giáo dục nhằm giúp họ nhanh chóng trồ thành người lương thiện, không phạm tội mới, đồng thời nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật và trật tự pháp luật, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng. Vì vậy, hoạt động thi hành hình phạt tù là hoạt động mang tính định hướng, tính mục đích.

Thi hành hỉnh phạt tù là hoạt động áp dụng pháp luật hướng vào thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Trước hết, thi hành hình phạt tù có nhiệm vụ bảo đảm làm sao hình phạt tù mà Toà án đã tuyên đối với các bị cáo khi đã có hiệu lực pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Đây là nhiệm vụ hàng đầu và hết sức quan trọng bởi nếu hình phạt tù đã được tuyên trong bản án và bản ân đó đã có hiệu lực pháp luật không được thực hiện hay thực hiện không đầy đủ, thì quá trình tố tụng trước đó (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) khó mà có ý nghĩa đầy đủ, đồng thời, khó mà giáo dục được công dân ý thức tôn -trọng pháp luật và trật tự pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của họ. Cải tạo, giáo dục người bị kết án tù trỏ thành người lương thiện, có ích cho xã hội, tạo mọi điều kiện để họ tái hoà nhập cộng đồng, phòng ngừa họ phạm tội mới là một trong những mục đích mà thi hành hình phạt tù cần đạt tới. Do vậy, nhiệm vụ thứ hai của thi hành hình phạt tù là bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các nội dung của Pháp lệnh thi hành hình phạt tù và Quy chế trại giam để đạt được mục đích của hình phạt. Nhiệm vụ thứ ba của thi hành hình phạt tù là bảo đảm làm sao để thi hành hình phạt tù có thời hạn giáo dục được người khác tôn trọng pháp luật, tích cực đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Việc thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải gắn quá trình cải tạo, giáo dục người bị kết án phạt tù với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành hình phạt, huy động các tổ chức xã hội, đoàn thể, công dân và đặc biệt là gia đình của người bị kết án tham gia cải tạo giáo dục người phạm tội. Đe thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, thi hành hình phạt tù, không thể không dựa trên những tư tưởng chỉ đạo, tức là những nguyên tắc xuyên suốt thi hành hình phạt nói chung và thi hành hình phạt tù nói riêng như pháp chế xã hội chủ nghĩa; nhân đạo xã hội chủ nghĩa; dân chủ xã hội chủ nghĩa; mọi người bị kết án đều bình đẳng trước pháp luật; người bị kết án có thể giáo dục, cải tạo được; phân hoá và cá thể hoá việc thi hành hình phạt; kết hợp cải tạo bằng lao động với giáo dục người bị kết án; bảo đảm nhân phẩm của phạm nhân trong các văn bản quốc tế về nhân quyền mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.

Nội dung của hoạt động thi hành hình phạt tù rất phong phú. Đó là việc ra quyết định thi hành hình phạt tù; xét hoãn thi hành hình phạt tù đối với những trường hợp có đủ những điều kiện mà pháp luật quy định; xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; tổ chức, quản lý các trại giam; giáo dục và cải tạo người chấp hành hình phạt tù bằng lao động, dạy nghề, học văn hoá… Đổ thực hiện có hiệu quả những nội dung của thi hành hình phạt tù, cơ quan thi hành hình phạt tù, những người có thẩm quyền thi hành hình phạt tù, đặc biệt là Giám thị, Phó giám thị trại giam, các cán bộ quản giáo… phải có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt là kiến thức pháp luật nói chung và kiến thức pháp luật thi hành hình phạt, trong đó có thi hành hình

phạt tù nói riêng. Ngoài ra, những người đó phải có ý thức pháp luật cao, có tâm huyết với công việc mới hoàn thành tốt được công việc đầy khó khán và phức tạp: cải tạo, giáo dục phạm nhân trỗ thành những công dân tốt, có ích cho xã hội.

Từ những điều phân tích trên đây, có thể hiểu: thi hành hình phạt tù là hoạt động áp dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước, tính thủ tục, tính định hướng mục đích, tính sáng tạo và tính khoa học do cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền thực hiện dựa trên những nguyên tắc nhất định nhằm đưa bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế nhằm cải tạo giáo dục người bị kết án tù có thời hạn trỏ thành người lương thiện, có ích cho xã hội.

2. Trình tự, thủ tục giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt tù

2.1 Khái quát chung về trình tự, thủ tục giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt tù

Chế định giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn được quy định trong BLHS (các điều 57, 58, 59), BLTTHS (các điều 268, 269) và các thông tư hướng dẫn như Thông tư liên ngành số 04/1989/TTLN ngày 15/8/1989 của Toà án nhân dân tốỉ cao – Viện kiểm sát nhân dân tốì cao – Bộ Tư pháp – Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an). Chế định này thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa, có tác dụng động viên khuyến khích người bị kết án cố gắng cải tạo tốt, nhanh chóng trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội. cần lưu ý rằng, việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn được quy định trong các điều luật của BLHS về giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt nói chung.

2.2 Về giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù

Như đã trình bày ồ phần trên những quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt có tác dụng khuyến khích người bị kết án đang chấp hành hình phạt, tích cực cải tạo tốt để nhanh chóng trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội.

Để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, người chấp hành hình phạt tù phải đảm bảo:

Thứ nhất, có thời gian thực tế đã chấp hành hình phạt tù và có thái độ cải tạo tốt được quy định tại các điều 58 và 59 BLHS;

Thứ hai, có đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục.

Theo Thông tư liên ngành số 04/1989/TTLN, việc lập hồ sơ xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có thời hạn do các trại giam thực hiện. Hồ sơ xét giảm bao gồm các tài liệu phản ánh điều kiện về thời gian đã chấp hành hình phạt và điều kiện về thái độ cải tạo, tình hình sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình và nêu rõ mức đề nghị giảm; các tài liệu phản ánh số lần và mức thời hạn chấp hành hình phạt tù đã giảm (nếu có) và lý do “đáng được khoan hồng thêm” (nếu có). Sau khi lập xong hồ sơ xét giảm, các trại giam phải gửi lên cho cơ quan quản lý cấp trên của trại giam. Nếu trại giam do công an tỉnh quản lý thì hồ sơ xét giảm chuyển lên cho công an tỉnh. Trại giam do Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) thì hồ sơ xét giảm chuyển lên cho Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an). Nếu trại giam do Bộ Quốc phòng quản lý, thì hồ sơ xét giảm phải được chuyển lên cho Bộ Quốc phòng, còn trại giam do cấp quân khu quản lý thì hồ sơ chuyển lên cho quân khu.

Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) xem xét đề nghị của trại giam do Bộ quản lý, đề xuất ý kiến của mình với Viện kiểm sát nhân dân tôì cao, đồng thời, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nơi có trại giam mà người bị kết án hình phạt tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt.

Cơ quan quản lý các trại giam do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý xem xét đề nghị của trại giam, đề xuất ý kiến của mình và thông báo ý kiến đó cho Viện kiểm sát quân sự trung ương, đồng thời chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi có trại giam. Công an cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý trại giam của quân đội ở quân khu xem xét đề nghị của trại giam do công an cấp tỉnh hoặc do quân khu quản lý, đề xuất ý kiến của mình rồi chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát nhân dân hoặc Viện kiểm sát quân sự cùng cấp. Các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nghiên cứu hồ sơ đã được chuyển đến, đề xuất ý kiến của mình rồi chuyển hồ sơ sang Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu.

Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có thời hạn với thành phần Hội đồng gồm 3 Thẩm phán, có sự tham gia và phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp. Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ mà trại giam gửi tói, ý kiến của cơ quan quản lý trại giam; đại diện của Viện kiểm sát trình bày quan điểm về xét giảm; Hội đồng thảo luận và ra quyết định chấp nhận toàn bộ hoặc một phần hoặc không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có thời hạn.

Quyết định của Toà án có thể bị Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Nếu quyết định của Toà án về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt đã có hiệu lực pháp luật, nó có thể bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật.

2.3 Về miễn chấp hành hình phạt

Miễn chấp hành hình phạt được quy định tại Điều 57 BLHS, điểm 5 Mục III Thông tư liên ngành số 04/1989/TTLN ngày 15/8/1989 của Toà án nhân dân tốỉ cao – Viện kiểm sát nhân dân tốì cao – Bộ Tư pháp – Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an).

Người đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có thời hạn có thể được miễn chấp hành hình phạt còn lại khi người đó bị kết án về tội ít nghiêm trọng, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều 62 BLHS, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Người chưa thành niên bị phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo… cũng có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

Toà án có thẩm quyền quyết định miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn là Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.

Toà án chỉ có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn trên cơ sở đề nghị của Viện kiểm sát. Do vậy trong hồ sơ xét miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn phải có tài liệu phản ánh ý kiến của Viện kiểm sát về vấn đề này.

Khi Toà án xét miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn, một thành viên của Toà án trình bày vấn đề đang xem xét, đại diện của Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, sau đó Toà án ra quyết định chấp nhận hoặc bác đề nghị miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group