1.Cơ sở pháp lý của quyền yêu cầu về xem xét chứng cứ
>> Xem thêm: Bản cáo trạng là gì ? Khái niệm về bản cáo trạng ?
Điều 305 về giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt quy định: Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt hoặc tuy có mặt tại phiên tòa nhưng vì lý do sức khỏe không thể tham gia tố tụng thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không; nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định”.
Tên của Điều 305 là “giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ” nhưng tại phần nội dung ghi là quyền “yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét”. Như vậy là chưa thống nhất về mặt từ ngữ vì chứng cứ theo Điều 86 BLTTHS “là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”, còn vật chứng, tài liệu theo Điều 87 BLTTHS là một trong những nguồn chứng cứ. Do đó cần thống nhất về mặt từ ngữ là “giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ” .
Chính vì chưa có sự quy định thống nhất nên dễ nhận đến gây hiểu lầm trong điều luật. Cụ thể là quyền yêu cầu về xem xét chứng cứ có hai dạng:
– Quyền yêu cầu Tòa án đưa các chứng cứ đã được thu thập ra xem xét tại phiên tòa vì mặc dù chứng cứ đã được thu thập nhưng khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử lại không đưa các chứng cứ này ra xem xét (thường là các vật chứng, dữ liệu điện tử, flie ghi âm, ghi hình). Đối với quyền này thì tất cả những người tham gia tố tụng có quyền yêu cầu và chỉ được Hội đồng xét xử xem xét trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa theo Điều 305 BLTTHS
– Quyền đưa ra các chứng cứ mới do người tham gia tố tụng thu thập, cung cấp tại phiên tòa và yêu cầu hội đồng xét xử xem xét. Đối với quyền này thì không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có mà chỉ có những người nào được BLTTHS quy định thì mới phát sinh quyền. Cụ thể là nhóm người tham gia tố tụng sau: Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (điểm d khoản 2 Điều 57); Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo (điểm đ khoản 2 các Điều 58, 59, 60, 61); Bị hại, nguyên đơn dân sự, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (điểm b khoản 2 các Điều 62, 63, 65); Bị đơn dân sự (điểm c khoản 2 Điều 64); Người bào chữa (điểm h khoản 1 Điều 73); Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự (điểm a Khoản 3 Điều 82, 83)
Về thời điểm đưa ra quyền này tuy BLTTHS không quy định cụ thể về thời hạn cuối cùng để đưa ra chứng cứ và yêu cầu hội đồng xét xử xem xét, tuy nhiên theo các quy định khác của BLTTHS có thể xác định thời hạn cuối cùng để đưa ra chứng cứ là trước khi kết thúc phần tranh luận.
Cụ thể theo quy định tại khoản 1 Điều 322 thì “Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu …”. Cơ chế để thực hiện việc kiểm tra chứng cứ khi bị cáo đưa ra chứng cứ mới tại phần tranh luận sẽ được thực hiện thông qua việc quay lại phần xét hỏi theo quy định tại Điều 323 BLTTHS, cụ thể “Nếu qua tranh luận mà thấy còn có tình tiết vụ án chưa được hỏi, chưa được làm sáng tỏ thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận”.
2. Trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong việc xem xét chứng cứ
>> Xem thêm: Công tố là gì ? Thực hành quyền công tố là gì ?
Đối với yêu cầu đưa các chứng cứ đã được thu thập ra xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xem xét, quyết định và thông báo việc chấp nhận yêu cầu hay không chấp nhận yêu cầu trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Đối với việc đưa ra các chứng cứ mới do người tham gia tố tụng thu thập, cung cấp tại phiên tòa và yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét. Tuy chưa quy định trình tự cụ thể nhưng có thể vận dụng Điều 252 BLTTHS để giải quyết như sau:
+ Yêu cầu họ nộp tại bàn Thư ký để chuyển Hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá tính xác thực, hợp pháp của chứng cứ (theo Điều 108 BLTTHS), nguồn chứng cứ mà họ có được? Làm rõ lý do tại sao tại phiên toà mới cung cấp?
+ Sau khi đã hỏi rõ các tình tiết liên quan đến hoạt động thu thập và giao nộp chứng cứ Hội đồng xét xử cần hỏi Kiểm sát viên, Người bào chữa, người bào vệ quyền và lợi ích của bị hại, Bị cáo, Bị hại và những người khác theo quy định của pháp luật có ý kiến như thế nào đối với việc giao nộp chứng cứ mới và đánh giá có đảm bảo theo Điều 86 BLTTHS hay không.
Trên cơ sở kiểm tra đánh giá tính xác thực và hợp pháp của chứng cứ và ý kiến của Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng Hội đồng xét có thể quyết định theo các hướng như sau:
+ Nếu tài liệu, chứng cứ, đồ vật cung cấp không đảm bảo tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án thì Hội đồng xét xử không coi đó là chứng cứ trong hồ sơ vụ án.
+ Nếu các tài liệu, chứng cứ, đồ vật cung cấp đã đảm bảo tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án nhưng không thay đổi bản chất vụ án, không ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bị cáo, người bị hại ví dụ như gia đình bị cáo nộp các chứng cứ chứng minh có tình tiết giảm nhẹ; Gia đình bị hại nộp các chứng cứ chứng minh bị cáo có hành vi đe dọa, trả thù; Nguyên đơn dân sự nộp thêm các hóa đơn chứng từ chứng minh cho yêu cầu của mình thì Hội đồng xét xử chấp nhận và xem xét làm rõ trong phần xét hỏi và đánh giá khi nghị án.
+ Nếu tài liệu chứng cứ trên làm thay đổi bản chất vụ án, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người tham gia tố tụng thì Hội đồng xét xử cần lưu ý:
Với các chứng cứ, đồ vật có thể được xác minh, xem xét thực hiện ngay trong 05 ngày thì Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên toà để xác minh.
Với các chứng cứ, đồ vật cần có thời gian để xem xét, xác minh bổ sung thì Kiểm sát viên đề nghị tạm hoãn phiên toà. Cụ thể: Trường hợp không thể bổ sung tài liệu tại phiên toà, Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
3. Đề xuất giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ
>> Xem thêm: Những trường hợp nào phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát giải quyết ?
Từ những phân tích ở trên, để góp phần hoàn thiện Điều 305 BLTTHS, người viết đề xuất xem xét, bổ sung Điều này như sau:
“Điều 305. Giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt
1. Giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ
Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm chứng cứ đã được thu thập trong vụ án ra xem xét hoặc yêu cầu được đưa thêm các chứng cứ mới, chưa được thu thập trong vụ án ra xem xét tại phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Việc giải quyết yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm chứng cứ đã được thu thập trong vụ án ra xem xét được thực hiện trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Việc giải quyết yêu cầu được đưa thêm các chứng cứ mới, chưa được thu thập trong vụ án ra xem xét tại phiên tòa được thực hiện chậm nhất trước khi khi Hội đồng xét xử tuyên bố kết thúc phần tranh luận.
2. Giải quyết yêu cầu hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt
Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt hoặc tuy có mặt tại phiên tòa nhưng vì lý do sức khỏe không thể tham gia tố tụng thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không; nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
4. Giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt trong vụ án hình sự
>> Xem thêm: Phân tích nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm Sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ?
Căn cứ theo quy định tại Điều 305 Bộ luật tố tụng hình sự 2015,Giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt được quy định như sau:
– Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt hoặc tuy có mặt tại phiên tòa nhưng vì lý do sức khỏe không thể tham gia tố tụng thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không; nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
– Bên cạnh đó, mình xin cung cấp thêm trình tự xét hỏi tại phiên tòa:
+ Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.
+ Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.
+ Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét vật chứng có liên quan trong vụ án.
5. Quy định hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm
Điều 297 BLTTHS năm 2015 quy định về hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm (1) theo đó Tòa án phải hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp sau: Phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa (khoản 2 Điều 52); phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa (khoản 2 Điều 53); không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán dự khuyết để thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều 288 BLTTHS thì phải hoãn phiên tòa (khoản 3 Điều 288); Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có kiểm sát viên dự khuyết thay thế (khoản 2 Điều 289); bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan (khoản 1 Điều 290); người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa (Điều 291); bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy từng trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (khoản 1 Điều 293); người giám định, người định giá tài sản vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (khoản 2 Điều 294); người phiên dịch, người dịch thuật vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 295). Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa. Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại. Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản.
Trường hợp hoãn phiên thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu. Hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm có thể phát sinh vào thời điểm trước khi mở phiên tòa hoặc thời điểm bắt đầu phiên tòa. Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.
Thẩm quyền ra quyết định hoãn phiên tòa thuộc về Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký quyết định hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 còn quy định trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa.
Quyết định hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định.
Quyết định hoãn phiên tòa có các nội dung chính sau: Ngày, tháng năm ra quyết định; tên Tòa án và họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; Vụ án được đưa ra xét xử; Lý do của việc hoãn phiên tòa; Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa.
Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)