1.Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử của Toà án
>> Xem thêm: Công tố là gì ? Thực hành quyền công tố là gì ?
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án về thẩm quyền xét xử; về việc chuyển vụ án; về thời hạn chuẩn bị xét xử; về việc ra các quyết định: Quyết định áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và việc giao các quyết định này theo Điều 182 BLTTHS.
Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì báo cáo lãnh đạo Viện kiến nghị, yêu cầu Toà án khắc phục hoặc kháng nghị theo các quy định của BLTTHS.
Kiểm sát viên phải căn cứ vào tính chất của từng vụ án và yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương báo cáo lãnh đạo Viện để chủ động phối hợp với Toà án tổ chức phiên toà xét xử cho thiết thực, phù hợp với thực tế nhằm tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân.
– Kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử:
Kiểm sát viên phải kiểm sát thời hạn ban hành một trong những quyết định sau đây của Thẩm phán chủ toạ phiên toà: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Các quyết định này đều phải được Thẩm phán chủ toạ phiên toà đưa ra trong thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS. Thời hạn chuẩn bị xét xử đã được Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn cụ thể tại mục 1.2 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004. Nếu quá thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS mà Thẩm phán chưa ban hành một trong những quyết định trên thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Thẩm phán chuyển ngay cho Viện kiểm sát quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.
– Kiểm sát việc áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn:
Đối với các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn thì Kiểm sát viên phải kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định này với các yêu cầu sau:
+ Căn cứ Điều 177 BLTTHS thì việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam phải do Chánh án hoặc Phó Chánh án thực hiện; các biện pháp ngăn chặn khác do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà thực hiện.
+ Thời hạn tam giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 BLTTHS và tại Mục 2.2 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Kiểm sát viên phải phát hiện và kiến nghị kịp thời các trường hợp để quá hạn tạm giam của Toà án.
– Kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử:
Kiểm sát nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ các nội dung theo Điều 178 BLTTHS. Trong đó chú ý đến:
+ Thành phần Hội đồng xét xử, danh sách những người tham gia tố tụng được triệu tập đến phiên toà.
+ Sự tham gia phiên toà của người giám hộ cho người chưa thành niên; Luật sư của LVN Group; người bào chữa trong các vụ án theo quy định của điểm a, điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS.
+ Sự tham gia của những người mà lời khai của họ có giá trị chứng minh tại phiên toà, như nhân chứng, bị hại.. nếu những người đó vắng mặt thì sẽ gây khó khăn cho việc xác định sự thật của vụ án. Nếu thấy nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa đầy đủ hoặc chưa đúng thì phải kiến nghị ngay với Toà án để bổ sung.
+ Kiểm sát việc giao quyết định này cho Viện kiểm sát, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất 10 ngày trước khi mở phiên toà. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử phải kiểm sát thời hạn mở phiên toà theo quyết định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS.
– Kiểm sát việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án:
Kiểm sát viên phải xác định tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, cụ thể là:
+ Đối với quyết định tạm đình chỉ vụ án cần kiểm tra thẩm quyền ra quyết định và căn cứ để tạm đình chỉ theo quy định tại Điều 160 BLTTHS; xác định rõ các yêu cầu: Sau khi Toà án tạm đình chỉ phải thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của tố tụng hình sự như: Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo với trường hợp không rõ bị cáo ở đâu; ra quyết định bắt buộc chữa bệnh khi bị cáo bị bệnh tâm thần…
+ Đối với quyết định đình chỉ vụ án: Cần kiểm sát các căn cứ mà Toà án đình chỉ theo đúng theo quy định tại Điều 180 BLTTHS. Chú ý là Toà án chỉ được đình chỉ theo một trong các căn cứ sau: Khoản 1 Điều 105 BLTTHS (người có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà); các căn cứ theo các điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 107 BLTTHS; khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.
+ Nếu phát hiện thấy việc đình chỉ, tạm đình chỉ không đúng thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét quyết định việc kháng nghị phúc thẩm.
– Kiểm sát việc giao quyết định của Toà án:
+ Kiểm sát viên kiểm sát việc giao quyết định của Tòa án theo quy định tại Điều 182 BLTTHS;
+ Để kiểm sát việc Toà án giao các quyết định thì Kiểm sát viên sau khi nhận được các quyết định này cần yêu cầu Toà án gửi cho những người khác theo quy định, thông qua hoạt động kiểm sát phần thủ tục tại phiên toà hoặc khiếu nại của người bào chữa, bị can, bị cáo để phát hiện các vi phạm của Thẩm phán, Thư ký trong việc giao các quyết định để có kiến nghị kịp thời với Chánh án.
2. Công bố Cáo trạng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự
>> Xem thêm: Những trường hợp nào phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát giải quyết ?
Trong bài trước nội dung, phạm vi tranh tụng đã được nhận diện, loạt bài viết này tập trung hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa như: Công bố cáo trạng, xét hỏi, luận tội;
Điều 306 BLTTHS quy định trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
Về công bố Bản cáo trạng: Theo quy định tại Điều 23 quy chế thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505 ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao (quy chế 505), thì Kiểm sát viên phải công bố nguyên văn bản cáo trạng.
Để công bố bản cáo trạng nguyên văn, đảm bảo có người lắng nghe (nhất là Cáo trạng nhiều trang), chúng tôi cho rằng Kiểm sát viên phải nghiên cứu, phải đọc trước; phải ngắt câu, có thể bố trí lại dấu chấm, phảy mà không làm mất đi hoặc sai lệch nội dung, khi đọc; đối với những từ ngữ la tinh, nước ngoài, chữ viết tắt cần phiên âm ra tiếng việt có dấu, ví dụ: chất heroin = chất hê-rô-in; café = cà phê; Công ty THHH MTV = Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên…
Kiểm sát viên phải đứng thẳng, có khoảng nhìn lên, quan sát thái độ bị cáo, người tham dự phiên tòa, không được “chỉ nhìn vào văn bản”, giọng đọc cần rõ ràng, mạch lạc, không ngọng, lắp, vấp và phải có điểm nhấn tại các phần như Kết luận, Quyết định; nguyên văn không có nghĩa là đọc toàn bộ dấu chấm, phẩy, nơi nhận của văn bản mà nguyên văn là nguyên văn nội dung;
Đối với vụ án có nhiều Kiểm sát viên THQCT, KSXX thì Kiểm sát viên công bố Bản cáo trạng nên tự giới thiệu họ tên trước khi đọc và nói đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc khi đã công bố xong Cáo trạng;
Về ý kiến bổ sung Luật định, quy chế hướng dẫn: sau khi công bố bản cáo trạng, nếu có ý kiến Kiểm sát viên trình bày ý kiến bổ sung; có thể hiểu trình bày ý kiến không lệ thuộc văn bản có sẵn, nhưng Ý kiến bổ sung chỉ để làm rõ, bổ sung thêm nội dung của bản cáo trạng mà không làm thay đổi nội dung bản cáo trạng, không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Để làm được điều này yêu cầu Kiểm sát viên phải nghiên cứu Cáo trạng, đối chiếu tài liệu hồ sơ trong giai đoạn điều tra, truy tố và tài liệu được Tòa án gửi đến trước khi mở phiên tòa; đồng thời phải báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện trước khi thực hiện (trừ trường hợp ra phiên tòa mới nhận được tài liệu của TAND), thực tiễn thấy rằng Kiểm sát viên phát biểu Bị cáo đã bồi thường, đã hợp tác với cơ quan điều tra tố giác đồng phạm, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị can, do chuyển biến chính sách pháp luật, nên hành vi của bị cáo phạm vào Điều luật nhẹ hơn…nhìn chung là các tình tiết, nội dung có lợi cho người bị buộc tội (bị cáo); Kiểm sát viên phải nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này;
Đối với vụ án do Tòa án cùng cấp trả lại yêu cầu điều tra bổ sung mà VKS giữ nguyên Quyết định truy tố (Bản Cáo trạng), thì sau khi công bố bản cáo trạng, Kiểm sát viên cần công bố văn bản của VKSND về việc VKSND không chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung, tiếp tục truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật tại Bản cáo trạng đã công bố tại phiên tòa;
Đối với vụ án do cấp Phúc thẩm hủy để xét xử lại theo thủ tục chung, thì Kiểm sát viên vẫn phải công bố cáo trạng và dẫn phần Quyết định của Bản án phúc thẩm để trình bày ý kiến giữ nguyên quan điểm truy tố;
Cần lưu ý Kiểm sát viên không được rút quyết định truy tố sau khi công bố Bản Cáo trạng; mặc dù đã phát hiện có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự (căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 Bộ luật hình sự (tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội) hoặc Điều 29 Bộ luật hình sự (căn cứ miễn trách nhiệm hình sự) hoặc khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự (nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội), nhưng Tòa án đã mở phiên tòa, Kiểm sát viên phải tiến hành xét hỏi và chỉ được rút quyết định khi đã kết thúc phần xét hỏi; Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước Viện trưởng, trước pháp luật. Thực tiễn thấy rằng, trong những trường hợp này phải thực hiện Điều 21 Quy chế 505, về việc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa (Điều 285 BLTTHS), cụ thể: Kiểm sát viên phải vận dụng đề nghị Hội đồng xét xử tạm dừng phiên tòa để có thời gian báo cáo lãnh đạo Viện về căn cứ đó để xem xét, quyết định rút quyết định truy tố (rút toàn bộ quyết định truy tố hoặc rút một phần quyết định truy tố) và đề nghị tòa án đình chỉ toàn bộ vụ án hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can được rút quyết định truy tố. Viện trưởng Quyết định việc rút quyết định truy tố
3. Khi nào thì công bố bản cáo trạng?
>> Xem thêm: Phân tích nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm Sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ?
Bản cáo trạng là văn bản pháp lý do Viện kiểm sát lập ra khẳng định việc truy tố bị can ra trước tòa án để xét xử. Bản cáo trạng phải được giao cho bị can và lưu trong hồ sơ vụ án. Vậy khi nào thì công bố bản cáo trạng? Qua bài viết này đội ngũ chuyên viên Luật sư của văn phòng Luật sư Thủ Đô xin được phân tích, bình luận các quy định của pháp luật về thời điểm công bố bản cáo trạng.
Quy định về thời điểm công bố cáo trạng được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cụ thể như sau:
– Bản cáo trạng là văn bản pháp lý do Viện kiểm sát lập ra khẳng định việc truy tố bị can ra trước tòa án để xét xử. Bản cáo trạng phải được giao cho bị can và lưu trong hồ sơ vụ án. Hay đây là quyết định của viện kiểm sát truy tố bị can trước tòa án. Bản cáo trạng phải dựa vào bản kết luận điều tra để nêu rõ: ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội, thủ đoạn, mục đích, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản Bộ luật hình sự được áp dụng.
– Theo quy định hiện hành, bản cáo trạng là văn bản pháp lý do Viện kiểm sát lập ra khẳng định việc truy tố bị can ra trước tòa án để xét xử. Bản cáo trạng phải được giao cho bị can và lưu trong hồ sơ vụ án. Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
4. Bản cáo án là gì ?
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 36 Bộ luật TTHS, thì việc truy tố bị can trước Toà án do Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định. Vì vậy, trước khi tham gia phiên toà xét xử Kiểm sát viên và lãnh đạo đơn vị phải báo cáo lãnh đạo Viện về việc giải quyết vụ án.
– Về hình thức:
Văn bản báo cáo án phải ghi rõ ngày, tháng, năm báo cáo án, người báo cáo án phải ký tên, nêu ý kiến của Kiểm sát viên là lãnh đạo đơn vị (Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là lãnh đạo Vụ, ở Viện Kiểm sát tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là lãnh đạo cấp Phòng). Văn bản báo cáo án phải được lưu giữ trong hồ sơ kiểm sát vụ án. Bản báo án phải ghi rõ lý lịch bị can: họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, thành phần xã hội, quan hệ gia đình, những đặc điểm cơ bản thuộc về nhân thân như tiền án, tiền sự. . . của bị can, ngày bị tạm giữ, tạm giam (nếu có). Ngoài ra, báo cáo cũng ghi đầy đủ về các thông tin của người bị hại, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp.
– Về nội dung:
Báo cáo án phải nêu tóm tắt nội dung vụ án, cụ thể là: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh nơi phạm tội. Diễn biến của hành vi phạm tội. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội? vụ án do một hay nhiều người thực hiện, có đồng phạm không, vai trò trách nhiệm từng người trong vụ án; tính chất lỗi của từng người tham gia? mục đích và động cơ phạm tội của từng người? tính chất và mức độ thiệt hại? Báo cáo cần phân tích và viện dẫn đầy đủ các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Cụ thể là, lời khai nhận tội hoặc chối tội của bị can, lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan… Kiểm sát viên phải báo cáo đầy đủ các lời khai (kể cả lời khai do cơ quan điều tra thu thập và các lời khai do Viện kiểm sát thu thập) để lãnh đạo có đầy đủ các thông tin trước khi quyết định phương hướng xử lý vụ án. Báo cáo cụ thể biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi; các vật chứng thu thập được, những dấu vết, tài liệu thu thập được có ý nghĩa chứng minh hoặc phủ nhận hành vi phạm tội. Kết luận giám định về những vấn đề xác định sự thật vụ án (giám định tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, giá trị tài sản, tỷ lệ thương tật, tốc độ xe cơ giới, vật liệu nổ, vũ khí, tiền giả, séc giả, ma tuý, tài chính…). Báo cáo cần nêu rõ những điểm khác nhau và những mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được. Khi báo cáo Kiểm sát viên có thể đọc văn bản đã được chuẩn bị, sau đó, trình bày thêm trên sơ đồ hiện trường, máy chiếu…
– Đề xuất áp dụng pháp luật:
Báo cáo cần đối chiếu giữa hành vi phạm tội của bị can với các quy định của BLHS để xác định rõ hành vi của bị can phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Ngoài quy định của BLHS, Kiểm sát viên cần căn cứ vào các văn bản pháp luật khác để viện dẫn áp dụng đối với bị can, nhất là trong các trường hợp điều luật quy định về tội phạm của BLHS lại dưới dạng quy định cần viện dẫn các văn bản pháp luật khác. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật như các thông tư liên tịch, các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về những nội dung có liên quan.
– Đề xuất đường lối giải quyết vụ án:
Để cho việc đề xuất có căn cứ, ngoài việc nêu những căn cứ chứng minh bị can phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS, báo cáo án cần xác định rõ những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (Điều 46, 48 BLHS), trong đó, cần phân biệt rõ những tình tiết có tính chất tăng nặng hoặc giảm nhẹ chung đối với tất cả các bị can, bị cáo trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức, phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. . .) và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chỉ gắn liền với từng bị can, bị cáo như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, tự thú, thật thà khai báo, tố giác tội phạm, lập công chuộc tội, người phạm tội là người già, phụ nữ có thai, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần . . . Trong trường hợp vụ án vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ thì báo cáo án phải đánh giá toàn diện trên tất cả các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để xác định ảnh hưởng của các tình tiết tăng nặng hay các tình tiết giảm nhẹ lớn hơn. Trên cơ sở đó, đề xuất hướng xử lý đối với bị can, bị cáo, đồng thời cũng cần xác định rõ bị can, bị cáo có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự hay không? Việc giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự (nếu có) thế nào?..
– Báo cáo vụ án cũng cần đề cập đến các tình tiết mà qua nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên thấy khác với kết luận điều tra, những nội dung mà Viện kiểm sát yêu cầu điều tra, nhưng quá trình điều tra chưa được làm rõ. Đối với các nội dung mà cơ quan điều tra chưa làm rõ thì Kiểm sát viên cũng cần nêu rõ các phương pháp cần tiến hành, như cần xác minh thêm vấn đề gì? Ai xác minh và thời gian tiến hành?… Đối với các vấn đề cần thay đổi nội dung các tình tiết của vụ án so với bản kết luận điều tra hoặc thay đổi diện truy tố cũng cần báo cáo với lãnh đạo Viện.
Đối với các bị can kêu oan, những vấn đề mà dư luận xã hội đề cập đến các tình tiết của vụ án như điều tra không khách quan, bỏ lọt tội phạm… thì Kiểm sát viên cần báo cáo đầy đủ với Lãnh đạo Viện.
– Khi báo cáo án, các Kiểm sát viên trực tiếp trả lời các câu hỏi của Lãnh đạo viện. Những vấn đề nào chưa trả lời được thì ghi chép lại nghiên cứu trả lời sau. Kiểm sát viên phải ghi chép ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo viện. Những vụ án được đưa ra Uỷ ban kiểm sát xin ý kiến hoặc thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên thì ý kiến chỉ đạo hoặc văn bản thỉnh thị và trả lời thỉnh thị cần phải được lưu lại trong hồ sơ kiểm sát (không để vào hồ sơ chính). Đối với những vụ án phức tạp, quan trọng cần phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của các ngành, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát cấp mình họp trù bị với Toà án.
5. Khi nào bị rút quyền truy tố ?
– Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Nếu Kiểm sát viên thấy có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của BLHS, thì phải báo cáo lãnh đạo Viện xem xét quyết định rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.
– Báo cáo đề xuất của kiểm sát viên với lãnh đạo viện kiểm sát về việc rút quyết định truy tố phải được thể hiện bằng văn bản trình bày rõ ràng các yêu cầu: Tóm tắt nội dung quyết định truy tố, căn cứ để rút quyết định truy tố; quan điểm đề xuất của Kiểm sát viên (rút toàn bộ; hay rút một phần, cụ thể rút vấn đề gì với ai, lý do, hướng giải quyết tiếp theo của vụ án là gì…).
– Đề xuất của Kiểm sát viên rút quyết định truy tố phải được lãnh đạo trực tiếp (lãnh đạo Vụ, Trưởng phòng, Phó Viện trưởng) có ý kiến cụ thể, sau đó báo cáo với Viện trưởng xem xét quyết định cuối cùng. Với những vụ án phức tạp về đánh giá chứng cứ, vướng mắc về quan điểm giải quyết thì phải báo cáo VKSND cấp trên (cần chú ý: Mọi hoạt động nghiệp vụ chỉ được giải quyết trong thời hạn chuẩn bị xét xử của Toà án theo quy định của BLTTHS).
– Đối với những vụ án do Viện kiểm sát cấp trên uỷ quyền cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, nếu Viện kiểm sát uỷ quyền có tài liệu là căn cứ rút quyết định truy tố thì trình tự làm như trên và ban hành quyết định rút quyết định truy tố, sau đó chuyển văn bản cho Viện kiểm sát được uỷ quyền để chuyển cho Toà án đang thụ lý hồ sơ vụ án thực hiện các bước tiếp theo quy định của BLTTHS.
– Nếu Viện kiểm sát được uỷ quyền thấy có căn cứ để rút quyết định truy tố thì phải làm văn bản báo cáo Viện kiểm sát cấp trên đã uỷ quyền, nêu rõ lý do, quan điểm (kèm theo tài liệu làm căn cứ rút quyết định truy tố) để Viện kiểm sát đã uỷ quyền xem xét quyết định việc rút quyết định truy tố.
Luật Minh KHuê (sưu tầm & phân tích)