NỘI DUNG TƯ VẤN:

1. Kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án hình sự của các tổ chức xã hội và công dân:

1.1 Cơ sở pháp lý của việc kiểm tra, giám sát đối với hoạt động thi hành án hình sự

Có thể nhận định rằng hoạt động kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và đối với hoạt động thi hành án của các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án nói riêng có cơ sở từ quy định của Hiên pháp và pháp luật. Điều 9 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mặt trận Tô quốc Việt Nam. và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhât trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước”. Điều 10 Hiến pháp ghi nhận: “Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước”. Hiến pháp cũng quy định công dân có các quyền để tham gia vào hoạt động quản lý xã hội, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Điều 53 Hiến pháp ghi nhận: “Công dân có quyền… kiến nghị với cơ quan nhà nước”. Điều 74 Hiến pháp ghi nhận: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước… Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định”. Không chỉ dừng ở những quy định có tính nguyên tắc trong Hiến pháp, quyền của tổ chức và công dân giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động thi hành án hình sự của cơ quan có nhiệm vụ thi hành án nói riêng còn được cụ thể hóa trong các đạo luật khác. Điều 8 BLTTHS năm 1988 quy định về “việc tham gia tố tụng hình sự của các tổ chức xã hội và công dân”: “Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, các tổ chức xã hội khác và công dân đều có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật này, góp phần đấu tranh chông và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân… Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, nếu Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng thì có quyền kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền quy định tại Bộ luật này. Cơ quan đó phải xem xét, giải quyết và trả lời cho các tổ chức xã hội đã kiến nghị biết”. Như vậy, hoạt động giám sát của công dân và các tổ chức xã hội có cơ sở Hiến pháp, đòi hỏi các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án hình sự phải nghiêm chỉnh tôn trọng và bảo đảm để công dân và các tổ chức xã hội thực hiện quyền giám sát của mình.

1.2 Phương thức thực hiện quyền giám sát của công dân, tổ chức xã hội đối với hoạt động thi hành án hình sự

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, công dân và các tổ chức xã hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có thể thực hiện quyền giám sát thông qua các phương thức sau:

– Kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm yêu cầu giải quyết những vấn đề phát sinh, khắc phục những vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án hình sự. Ví dụ: việc không bắt người bị kết án đi chấp hành hình phạt;

– Khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, yêu cầu xem xét, giải quyết những vi phạm pháp luật, những hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong hoạt động thi hành án;

– Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để thông báo, tố cáo những vi phạm pháp luật làm cơ sở để các cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Những khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân, tổ chức phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các trình tự, thủ tục giải quyết có thể được quy định trong đạo luật về giải quyết khiếu nại tố cáo theo trình tự và thủ tục hành chính và cũng có thể quy định như một trình tự, thủ tục tư pháp ngay trong các đạo luật điều chỉnh về hoạt động tư pháp như BLTTHS, Pháp lệnh thi hành án phạt tù…

2. Lịch sử Thi hành án hình sự với hình phạt tử hình:

2.1 Sự thu hẹp các quy định về án tử hình

Mặc dù việc duy trì hình phạt tử hình trong giai đoạn hiện nay ở nước ta vẫn còn cần thiết, nhưng việc quy định và áp dụng hình phạt tử hình cũng phát triển theo xu hướng chung là phạm vi các quy định cho phép áp dụng hình phạt này ngày càng thu hẹp và hạn chế cho đến khi có thể thay thế hoàn toàn. Nếu như tại BLHS năm 1985 khả nàng áp dụng hình phạt tử hình được quy định ỏ 44 điều luật, chiêm 15% trên tổng số các tội được quy định ở Bộ luật, thì tại BLHS năm 1999 con số đó giảm xuống chỉ còn ở 29 tội, chiêm 11,5% trên tổng số các tội được quy định trong Bộ luật. Khi ban hành BLHS năm 1985, một số tội phạm mà các pháp lệnh ban hành trước đây quy định có khả năng áp dụng hình phạt tử hình thì khả năng đó đã được xóa bỏ. Chẳng hạn, đối với các tội: phá hoại việc thực hiện chính sách kinh tế – xã hội (Điều 80), đầu cơ (Điều 165), buôn bán hàng cấm (Điều 166). BLHS năm 1999 tiếp tục xóa bỏ hình phạt tử hình một số tội nữa, như tội chống phá trại giam (Điều 90), tội trộm cắp tài sản (Điều 138), tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới (Điều 154)…

2.2 Các tội có quy định về mức án tử hình:

Hình phạt tử hình chỉ còn được quy định đối với bảy trong số mười ba tội thuộc Chương XI – Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, gồm các tội: phản bội tổ quốc (khoản 1 Điều 78 BLHS), hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (khoản 1 Điều 79 BLHS), gián điệp (khoản 1 Điều 80 BLHS), bạo loạn (khoản 1 Điều 82 BLHS), hoạt động phỉ (khoản 1 Điều 83 BLHS), khủng bố (khoản 1 Điều 84 BLHS), phá hoại cơ sở vật chất kỹ thuật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 1 Điều 85 BLHS); Ba trong số hai mươi chín tội thuộc Chương XVI – Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, gồm các tội: buôn lậu (Điều 153 BLHS), sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157 BLHS), làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180 BLHS); Ba trong số mười tội thuộc Chương XVIII – Các tội phạm về ma tuý, gồm các tội: sản xuất trái phép chất ma tuý (khoản 4 Điều 193 BLHS), tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý (khoản 4 Điềul94 BLHS), tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (khoản 4 Điều 197 BLHS); Hai trong số năm mươi lăm tội được quy định trong Chương XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, gồm các tội: Chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ (Điều 221 BLHS), phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231 BLHS); Ba trong số mười bốh tội thuộc Chương XXI – Các tội phạm về chức vụ, gồm cấc tội: tham ô tài sản (khoản 4 Điều 278 BLHS), nhận hối lộ (khoản 4 Điều 279 BLHS), đưa hối lộ (khoản 4 Điều 289 BLHS); Ba trong số hai mươi sáu tội thuộc Chương XXIII – Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, gồm các tội: chống mệnh lệnh (Điều 316 BLHS), đầu hàng địch (khoản 3 Điều 322 BLHS), huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (khoản 4 Điều 334 BLHS); Ba trong số bốn tội thuộc Chương XXIV – Các tội phá hoại hoà bình, chông loài người và tội phạm chiến tranh, gồm các tội: phá hoại hoà bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 341 BLHS), chống loài người (Điều 342 BLHS), tội phạm chiến tranh (Điều 343 BLHS).

Ngoài việc quy định cụ thể các tội phạm mà Tòa án có thể áp dụng hình phạt tử hình, BLHS còn hạn chế đến mức tối đa khả năng áp dụng hình phạt đó: tử hình chỉ được áp dụng trong phạm vi những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Thậm chí, ngay cả khi có đủ điều kiện này thì tử hình cũng không phải là hình phạt duy nhất, mà là khả năng cuối cùng, khi Tòa án xét thấy không thể áp dụng loại hình phạt khác được quy định trong chế tài vì tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm.

Yêu cầu về việc hạn chế áp dụng hình phạt tử hình còn thể hiện ở chỗ pháp luật nghiêm cấm áp dụng hình phạt này đối với những người phạm tội khi chưa thành niên hoặc phụ nữ có thai, cho dù lúc xét xử người phạm tội có thể đã thành niên hoặc người phụ nữ đã sinh đẻ. Chỉ so sánh Điều 35 BLHS năm 1999 với Điều 27 BLHS nâm 1985 cũng sẽ thấy rõ xu hướng của chính sách nhân đạo đó trong vòng 14 năm ấp dụng. Điều 27 BLHS năm 1985 quy định: không áp dụng tử hình đốĩ với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai khi phạm tội hoặc khi bị xét xử; Điều 35 BLHS năm 1999 quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

Nếu BLHS nám 1985 quy định: tử hình được hoãn thi hành đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 12 tháng, thì BLHS năm 1999 quy định: không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này, theo BLHS năm 1999, hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.

Xu hưóng hạn chế đến mức tối đa việc áp dụng hình phạt tử hình còn được thể hiện một cách rõ nét qua các quy định nghiêm ngặt về thủ tục thi hành án tử hình.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group