Đánh giá quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS năm 2015.

Ưu điểm về quy định bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS năm 2015.

Thứ nhất, BLDS năm 2005 mặc dù đã ghi nhận vấn đề bảo lưu quyền sở hữu tại Điều 461, tuy nhiên chỉ được hiểu dưới tư cách là một thỏa thuận trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần. Còn trong BLDS 2015, bảo lưu quyền sở hữu còn được ghi nhận với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Việc ghi nhận bảo lưu quyền sở hữu với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của BLDS 2015 được đánh giá là phù hợp với bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu nhằm đáp ứng nhu cầu điều chỉnh đối với những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và đời sống nhân dân, qua đó bảo đảm được tính bao quát, ổn định trong quy định của BLDS.

Bên cạnh đó, một trong những xu hướng của pháp luật dân sự của các nước hiện nay đều coi bảo lưu quyền sở hữu như một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Do đó, việc bảo lưu quyền sở hữu từ phần hợp đồng mua bán sang phần bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc bổ sung thêm biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu được kỳ vọng sẽ đảm bảo cho người tham gia vào các giao dịch dân sự có được thế chủ động trong thực tế hưởng quyền dân sự từ đó bảo đảm hơn quyền của các chủ thể thiện chí, “yếu thế” trong các giao dịch dân sự. Từ đó đảm bảo cho nền kinh tế được ổn định hơn khi các giao dịch được diễn ra một cách thiện chí, bình đẳng.

Thứ hai, BLDS năm 2015 đã quy định cụ thể các nội dung có liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu. So với BLDS Pháp, BLDS Việt Nam quy định cụ thể hơn về một số nội dung như quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba, quyền và nghĩa vụ của các bên, căn cứ chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu,… Ví dụ, về quyền và nghĩa vụ của bên mua, BLDS Pháp chỉ quy định các vấn đề liên quan đến quyền đòi lại tài sản của bên bán khi bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận. Còn BLDS 2015 đã có sự cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên trong bảo lưu quyền sở hữu. Quy định này đảm bảo cho các bên có cơ sở pháp lý rõ ràng khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời cơ quan có thẩm quyền cũng có căn cứ cụ thể để giải quyết những tranh chấp phát sinh.

Thứ ba, việc quy định hình thức xác lập bảo lưu quyền sở hữu bắt buộc phải bằng văn bản đảm bảo được tính xác thực của thỏa thuận về bảo lưu quyền sở hữu. Bởi điều này giúp chứng thực khi có tranh chấp xảy ra. Các bên dựa vào văn bản này để chứng minh việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời bên bán dùng nó để đối kháng với người thứ ba khi muốn truy đòi tài sản. Điều này còn giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể dễ dàng đánh giá tính xác thực của thỏa thuận để có thể đưa ra phán quyết đúng đắn, nhằm giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh.

Thứ tư, việc quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua khi bảo lưu quyền sở hữu được xác lập và có giá trị có thể bảo đảm cho các bên có cơ sở pháp lý rõ ràng khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Đây sẽ là cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ khi có tranh chấp xảy ra. Xác định bên nào vi phạm hợp đồng là một việc cần thiết trong quá trình giải quyết của tòa án. Việc xác định sự vi phạm ấy phụ thuộc vào nghĩa vụ của mình mà các bên đã thực hiện. Khi đó, căn cứ vào việc bên nào không thực hiện đầy đủ các quy định đã thỏa thuận hoặc luật quy định thì sẽ phải chịu hậu quả pháp lý nhất định.

Thứ năm, với vị trí là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bảo lưu quyền sở hữu có thể áp dụng với các hợp đồng mua bán mà không nhất thiết phải là hợp đồng mua trả chậm, trả dần. Điều này cho phép các bên trong quan hệ mua bán có thể áp dụng triệt để biện pháp bảo lưu quyền sở hữu trong mọi trường hợp mua bán tài sản.

Hạn chế về quy định bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS năm 2015.

Thứ nhất, Pháp luật của một số nước công nhận bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm, như Pháp nêu rõ bên bảo đảm là bên mua, bên nhận bảo đảm là bên bán, còn nghĩa vụ được bảo đảm là nghĩa vụ thanh toán số tiền mà bên mua còn chưa trả cho bên bán theo hợp đồng mua bán. Tuy nhiên, BLDS 2015 một mặt không đề cập cụ thể các khía cạnh này, mặt khác lại vô tình tước đi quyền hưởng biện pháp bảo đảm của bên bán thông qua việc đặt ra nghĩa vụ cho bên bán phải hoàn trả bên mua số tiền đã nhận thanh toán từ bên này. Đáng lẽ bên bán sẽ không được thanh toán số tiền còn thiếu – điều mà đáng lẽ biện pháp bảo đảm này hướng tới. Thêm vào đó, khi đã bán tài sản, không phải lúc nào bên bán cũng muốn nhận lại tài sản đã bán vì rất nhiều lý do, chẳng hạn khi giá thị trường của tài sản đã giảm đáng kể hay khi tài sản có tính chất đặc thù và khó tìm được khách hàng mua… Cách tiếp cận của BLDS 2015 có thể dẫn tới việc bên mua nếu muốn trả lại tài sản và đòi lại số tiền đã thanh toán thì chỉ việc không thanh toán hết số tiền đã thỏa thuận. Đây là một hạn chế lớn của bảo lưu quyền sở hữu[1].

Thứ hai, Điều 332 còn quy định “Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại” có thể sẽ gây ra những tranh cãi trên trên thực tế. Bởi lẽ, có thể xảy ra hai trường hợp sau: thứ nhất, khi bên mua vẫn đang tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tài sản bị mất đột ngột. Nếu vẫn tiếp tục thanh toán cho đến hết thì bên bán sẽ chuyển giao quyền sở hữu tài sản sang cho bên mua? Tài sản không còn, việc chuyển giao quyền sở hữu liệu có còn ý nghĩa?; thứ hai, nếu đang thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tài sản bị mất, bên mua ngưng thanh toán, bên bán đòi tài sản thì phát hiện ra tài sản bị mất. Tại đây, quyền yêu cầu bồi thường sẽ phát sinh. Quy định này của Điều 332, một cách gián tiếp, đẩy rủi ro cho bên mua tài sản kể từ thời điểm được giao tài sản. Trong khi đó, bên bán với tư cách chủ sở hữu tài sản sẽ không gánh chịu rủi ro.

Thứ ba, trên thực tế, việc quy định biện pháp bảo đảm là bảo lưu quyền sở hữu có mặt trái là gây bất lợi cho ngân hàng trong một số tình huống đặc thù. Khách hàng và ngân hàng thỏa thuận một hợp đồng vay tài sản với biện pháp bảo đảm là một lô hàng hóa. Tuy nhiên, khi ngân hàng thực hiện xử lý tài sản bảo đảm, chưa kịp bán lô hàng thì ngân hàng nhận được thông báo đòi lại hàng từ một bên thứ ba (tự xưng là chủ tài sản). Xuất phát từ đặc điểm của bảo lưu quyền sở hữu tài sản rằng: bên bán sẽ giữ lại quyền sở hữu đối với tài sản cho đến khi bên mua thực hiện xong toàn bộ việc thanh toán, trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, bên mua có quyền sử dụng và khai thác lợi ích từ tài sản; nếu bên mua không thanh toán đầy đủ, bên bán có quyền đòi lại tài sản và phải trả lại số tiền đã nhận của bên mua, sau khi đã trừ giá trị hao mòn; việc bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng và có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba kể từ thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm. Thêm vào đó, bên thứ ba đó đã xác lập với khách hàng sớm hơn vì vậy mà ngân hàng không thể thu hồi nợ từ tài sản bảo đảm là ngân hàng nói trên[2].

Thứ tư, BLDS năm 2015 chưa xác định rõ giá trị của hiệu lực đối kháng trong trường hợp bên mua tài sản bán lại tài sản này cho người khác. Như trường hợp đối với ngân hàng ở trên. Vậy sẽ phải giải quyết thế nào khi bên bảo đảm chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và đã bán tài sản cho người khác, và bên nhận bảo đảm hiện vẫn đang là chủ sở hữu đối với tài sản bảo đảm đó. Khi đó sẽ rất khó giải quyết khi xuất hiện một bên thứ ba cũng bị dàng buộc đối với tài sản bảo đảm. Và việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ gặp nhiều vấn đề phức tạp liên quan.

Thứ năm, theo phân tích ở mục II, bảo lưu quyền sở hữu quy định tại BLDS 2015 không mang tính bảo đảm và tính dự phòng của một biện pháp bảo đảm. Bởi vì, về lý thuyết thì bên bán chính là bên nhận bảo đảm còn bên mua là bên bảo đảm, nhưng tài sản bảo đảm lại thuộc sở hữu của bên bán, hơn nữa lại do bên mua nắm giữ và khai thác, sử dụng. Nghĩa vụ được đảm bảo bảo lưu quyền sở hữu là nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản. Tuy nhiên, xét trên thực tế, nếu bên mua không thanh toán đủ tiền mua tài sản, đồng thời có hành vi tẩu tán tài sản thì khi đó việc đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại khó có thể thực hiện được và cũng không có cơ sở nào đảm bảo cho những cơ sở này được đáp áp trên thực tiễn.

Kiến nghị hoàn thiện quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS 2015.

Qua việc phân tích những hạn chế của bảo lưu quyền sở hữu, xin được phép kiến nghị Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13. Với nội dung cơ bản như sau:

Sửa đổi quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS 2015 (Điều 332) và quy định về bảo lưu quyền sở hữu như sau: “Trong trường hợp bên mua không thanh toán đầy đủ tiền đúng hạn, bên bán có thể yêu cầu hoàn trả lại tài sản nhằm khôi phục lại quyền được định đoạt tài sản này. Giá trị của tài sản được đòi lại được sử dụng để thanh toán số tiền còn thiếu. Nếu giá trị của tài sản này lớn hơn số tiền còn nợ đã đến hạn thanh toán thì bên bán phải hoàn trả phần chênh lệch cho bên mua”.

Nên có sự phân biệt việc đòi lại tài sản theo quy định tại Điều 332 với việc hoàn trả lại tài sản trong trường hợp hợp đồng bị hủy theo Điều 427 BLDS năm 2015. Pháp luật cần cho phép người bán đòi lại tài sản không cần căn cứ vào quyết định của tòa án mà chỉ cần bằng chứng người mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.

Nếu Điều 331 cho phép người bán bảo lưu quyền sở hữu khi người mua chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người bán thì quy định tại Điều 453 (mua trả chậm, trả dần) là không cần thiết. Có thể loại bỏ hẳn Điều 453 hoặc sửa đổi bằng cách bỏ khoản 2 Điều 453 với quy định: “bên mua có quyền sử dụng tài sản mua trả chậm, trả dần”[3].

Có thể xem xét để loại bỏ bảo lưu quyền sở hữu ra khỏi các biện pháp bảo đảm, đồng thời cụ thể hóa vấn đề bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán tài sản (tức là quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong bảo lưu quyền sở hữu nên chuyển sang phần của hợp đồng mua bán tài sản và được quy định thành một điều luật cụ thể).

Về quy định cụ thể

  • Quy định tại Điều 332 BLDS 2015:

Tên gọi của Điều luật này là quyền đòi lại tài sản, về nguyên tắc nội dung của điều luật này phải quy định về các quyền liên quan đến quyền đòi lại tài sản. Tuy nhiên, trong nội dung của điều luật này, ngoài việc quy định trên, điều luật còn quy định quyền yêu cầu bồi thường và nghĩa vụ của bên bán trong việc hoàn trả tiền bên mua đã thanh toán cho bên bán. Không thống nhất giữa tên gọi và nội dung của điều luật. Ta có thể sửa tên Điều 332 thành quyền và nghĩa vụ của bên bán là hợp lí.

  • Đối với quy định về quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản quy định tại Điều 333.

Nghiên cứu khái niệm về quyền sử dụng tại Điều 189 BLDS 2015 cho thấy Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Tức là quyền sử dụng sẽ bao gồm hai nội dung chính là khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 333 lại quy định bên mua có “quyền sử dụng tài sản” và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” là không hợp lý, là không thống nhất giữa các điều thuộc cùng văn bản pháp luật. Theo đó, nên sửa đổi khoản 1 Điều 333 như sau: “Khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực”.

Ngoài ra, kiến nghị Chính phủ cần ban hành một Nghị định hướng dẫn quy định về bảo lưu quyền sở hữu, với nội dung: làm rõ việc người mua có hay không quyền hưởng lợi từ tài sản trong bảo lưu quyền sở hữu và bổ sung quy định nếu người thứ ba chưa trả tiền cho bên mua trong giao dịch giữa bên mua và bên thứ ba thì bên bán thay vì lấy lại tài sản có thể lấy lại chính khoản tiền mà người thứ ba sẽ trả cho bên mua