Trong xã hội, ai cũng có với nhau những quan hệ dân sự nhất định. Có những quan hệ dân sự xảy ra êm đềm, hài hòa nhưng cũng có những quan hệ dân sự xảy ra tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các chủ thể. Xuất phát từ việc thỏa thuận với nhau, thì để giải quyết tranh, các đương sự cũng có quyền lựa chọn và quyết định. Tố tụng dân sự là sự giải quyết các vụ việc dân sự bằng Tòa án

Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.

Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.

Nguyên tắc của luật TTDS Việt Nam là những tư tưởng pháp lí chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS, được ghi nhận trong các văn bản TTDS.

Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết định về quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó. Là một vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự, chi phối quá trình tố tụng dân sự nên quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự.

Cơ sở xây dựng nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.

Cơ sở lý luận:

Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự luôn gắn liền với quyền tự định đoạt của chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung. Có thể nói rằng các quy định của pháp luật nội dung là cơ sở pháp lí để quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự còn phụ thuộc vào những quy định của pháp luật về năng lực hành vi chủ thể và thẩm quyền xét xử của tòa án,.. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của mình sẽ dẫn đến tranh chấp. Khi tranh chấp được đưa đến tòa án giải quyết, các chủ thể có quyền, lợi ích cần giải quyết trong vụ việc là các đương sự có quyền tự quyết định các biện pháp bảo vệ quyền, lợi ích của mình trước Tòa án và quyết định quyền, lợi ích của mình trong vụ việc.

Cơ sở thực tiễn:

Về bản chất, các tranh chấp dân sự ít mang tính nguy hiểm hơn việc vi phạm các quy phạm pháp luật hình sự, là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Do đó, các đương sự trong quan hệ dân sự phải có quyền tự định đoạt khi có tranh chấp xảy ra, tự lựa chọn cách thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Nội dung quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.

Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự xác định quyền của đương sự tự quyết định về việc tham gia tố tụng dân sự, tự quyết định quyền và lợi ích của họ trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật và trách nhiệm của tòa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác

Quyền khởi kiện VADS là một trong các quyền TTDS của đương sự, được thực hiện đầu tiên trong quá trình TTDS. Với quy định tại các Điều 4, 5, 9, 186, 187 BLTTDS, Nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan tổ chức yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Thực hiện quyền khởi kiện chính này là một biểu hiện của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong khởi kiện VADS. Đương sự có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác khởi kiện VADS (nếu đủ năng lực hành vi TTDS) hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự sẽ quyết định việc khởi kiện (nếu đương sự không đủ năng lực hành vi TTDS).

Khoản 1 Điều 4 BLTTDS quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Khoản 1 Điều 5 BLTTDS quy định: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Điều 186 BLTTDS về quyền khởi kiện vụ án: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 184 BLTTDS quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ dân sự thì đương sự được tự định đoạt trong việc yêu cầu áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu khi có yêu cầu của một bên hoặc các bên và yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc

Kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự.

Thứ nhất, Điều 190 BLTTDS 2015 quy định việc nộp đơn khởi kiện có thể thực hiện bằng các phương thức như nộp trực tiếp tại Tòa án; gửi đến tòa án qua đường bưu chính hoặc gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua cổng thông tin điện tử của Tòa án đã tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện. Tuy nhiên, theo điều 189 BLTTDS thì người khởi kiện VADS phải làm đơn khởi kiện đến Tòa án mà không được trực tiếp đến Tòa án khởi kiện, đây là một hạn chế[1]. Điều 272 BLTTDS 2015 quy định người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo mà không được trực tiếp đến Tòa án kháng cáo chưa tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự kháng cáo. Thực tế, không phải đương sự nào cũng có đủ trình độ, khả năng để làm đơn khởi kiện VADS, đơn yêu cầu giải quyết VDS hay đơn kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật và họ cũng không có khả năng nhờ người khác làm thay. Do đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTDS 2015 về việc đương sự được trực tiếp đến Tòa án trình bày yêu cầu khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết việc dân sự hay yêu cầu kháng cáo bản án quyết định sơ thẩm.

Thứ hai, theo quy định tại Điều 299 BLTTDS, trước khi mở phiên tòa hoặc phiên tòa phúc thẩm, nếu đương sự rút đơn khởi kiện thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy từng trường hợp mà giải quyết như sau:

  • Bị đơn không đồng ý thì HĐXX không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của đương sự
  • Bị đơn đồng ý thì HĐXX chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của đương sự, ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.

Như vậy, việc rút yêu cầu ở giai đoạn phúc thẩm bị BLTTDS 2015 giới hạn, về hình thức là để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn nhưng lại hạn chế vì vô tình đã khuyến khích bị đơn theo kiện (bị đơn cố chấp theo kiện), không đảm bảo đầy đủ quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS[2]. Do đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 299 BLTTDS 2015 như sau: “1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật; 2. Trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do Bộ luật này quy định”[3].

Thứ ba, về việc phúc thẩm VADS, một mặt tạo điều kiện cho đương sự tham gia TTDS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, mặt khác tạo điều kiện cho tòa án cấp trên sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án cấp dưới trong việc giải quyết VADS. Tuy nhiên, việc Điều 278 BLTTDS quy định thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết VADS của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm mà không giới hạn trường hợp nào Viện trưởng Viện kiểm sát mới được kháng nghị là chưa hợp lý. Việc kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát sẽ xâm phạm quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS trong trường hợp đương sự đồng ý với bản án, quyết định sơ thẩm nên kháng nghị.

Thứ tư, trong trường hợp 7 ngày kể từ ngày Tòa án lập biên bản mà đương sự thay đổi thỏa thuận này bằng thỏa thuận khác thì chưa được BLTTDS 2015 quy định cụ thể[4]. Điều này dẫn đến những Tòa án khác nhau có cách giải quyết khác nhau, không có sự thống nhất trong TTDS. Do đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015 như sau: “Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải mà không có đương sự thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận hoặc thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải mà các đương sự tự nguyện thay đổi thỏa thuận cũ bằng thỏa thuận mới và thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”.

Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTDS. Các chủ thể tham gia vào hoạt động TTDS đều phải tôn trọng và đảm bảo thực hiện, đặc biệt là Tòa án. Nếu như đối với đương sự, quyền tự định đoạt là một trong những quyền cơ bản của họ thì sang Tòa án, Tòa án phải có trách nhiệm đảm bảo cho quyền đó của họ được thực hiện trên thực tế bởi quyền đó có được thực hiện hay không, mức độ thực hiện như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào Tòa án


[1] Bùi Mạnh Cường (2018), Quyền tự định đoạt của đương sự và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr. 23.

[2] Bùi Mạnh Cường (2018), Quyền tự định đoạt của đương sự và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr. 27, 28.

[3] Bùi Mạnh Cường (2018), Quyền tự định đoạt của đương sự và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr. 52, 53.

[4] Trần Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Dân sự của nước CHXHCNVN năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 504 – 505.