1. Trước năm 1880
Các dân tộc cổ đại không có cùng quan niệm hiện đại về nhân quyền phổ quát. Tiền thân thực sự của diễn ngôn nhân quyền là khái niệm về quyền tự nhiên xuất hiện như một phần của truyền thống luật tự nhiên thời Trung cổ, trở nên nổi bật trong thời kỳ Khai sáng châu Âu. Từ nền tảng này, các lập luận nhân quyền hiện đại đã xuất hiện trong nửa sau của thế kỷ 20.
Nhà triết học người Anh thế kỷ 17 John Locke đã thảo luận về các quyền tự nhiên trong tác phẩm của mình, xác định chúng là “quyền sống, quyền tự do và tài sản (tài sản)”, và lập luận rằng các quyền cơ bản đó không thể bị từ bỏ trong khế ước xã hội. Ở Anh vào năm 1689, Tuyên ngôn Nhân quyền của Anh và Tuyên bố về Quyền của Scotland đều quy định một loạt các hành động áp bức của chính phủ là bất hợp pháp. Hai cuộc cách mạng lớn xảy ra trong thế kỷ 18, ở Hoa Kỳ (1776) và ở Pháp (1789), dẫn đến Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Pháp về Quyền của Con người và Công dân tương ứng, cả hai đều nêu rõ một số quyền con người. Ngoài ra, Tuyên ngôn về Quyền của Virginia năm 1776 đã được mã hóa thành luật một số quyền dân sự cơ bản và tự do dân sự.
“Chúng tôi cho rằng những chân lý này là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người đều được tạo ra bình đẳng, rằng họ được Tạo hóa ban tặng cho một số Quyền không thể chuyển nhượng, trong đó có Quyền sống, Quyền tự do và quyền mưu cầu Hạnh phúc”. (Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ, 1776)
2. Năm 1880 đến chiến tranh thế giới thứ nhất
Các triết gia như Thomas Paine, John Stuart Mill và Hegel đã mở rộng chủ đề về tính phổ quát trong thế kỷ 18 và 19. Năm 1831, William Lloyd Garrison đã viết trên một tờ báo có nhan đề “Người giải phóng” rằng ông đang cố gắng lôi kéo độc giả của mình tham gia vào “sự nghiệp vĩ đại của nhân quyền”. Vào năm 1849, một người cùng thời, Henry David Thoreau, đã viết về quyền con người trong chuyên luận “Về nghĩa vụ bất tuân dân sự” mà sau này đã có ảnh hưởng đến các nhà tư tưởng về quyền con người và quyền công dân. Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ David Davis, trong ý kiến của ông năm 1867 cho Ex Parte Milligan, đã viết “Bằng sự bảo vệ của luật pháp, quyền con người được bảo đảm; rút lại sự bảo vệ đó và, họ phải chịu sự thương xót của những kẻ thống trị độc ác hoặc sự kêu gào của một người dân quá khích”.
Nhiều nhóm và phong trào đã cố gắng đạt được những thay đổi xã hội sâu sắc trong suốt thế kỷ 20 nhân danh quyền con người. Ở Tây Âu và Bắc Mỹ, các liên đoàn lao động đã đưa ra luật cấp cho người lao động quyền đình công, thiết lập các điều kiện làm việc tối thiểu và cấm hoặc điều chỉnh lao động trẻ em. Các quyền của phụ nữ phong trào thành công trong việc đạt được đối với nhiều phụ nữ quyền bỏ phiếu. Các phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước đã thành công trong việc đánh bật các cường quốc thuộc địa. Một trong những người có ảnh hưởng nhất là sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi đối với phong trào độc lập của Ấn Độ. Các phong trào của các nhóm thiểu số chủng tộc và tôn giáo bị áp bức từ lâu đã thành công ở nhiều nơi trên thế giới, trong số đó có phong trào dân quyền và các phong trào chính trị bản sắc đa dạng gần đây, thay mặt cho phụ nữ và thiểu số ở Hoa Kỳ.
Việc thành lập Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế, Bộ luật Lieber năm 1864 và Công ước Geneva đầu tiên năm 1864 đã đặt nền móng cho Luật nhân đạo quốc tế, sẽ được phát triển hơn nữa sau hai cuộc Thế chiến.
3. Giữa chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh thế giới thứ hai
Các Hội Quốc được thành lập năm 1919 tại các cuộc đàm phán trong Hiệp ước Versailles sau khi kết thúc Thế chiến thứ nhất. Các mục tiêu của Liên đoàn bao gồm giải trừ quân bị, ngăn chặn chiến tranh thông qua an ninh tập thể, giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thông qua đàm phán, ngoại giao và cải thiện phúc lợi toàn cầu. Được ghi rõ trong Hiến chương của nó là một nhiệm vụ thúc đẩy nhiều quyền mà sau này đã được đưa vào Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu.
Hội Quốc Liên có nhiệm vụ hỗ trợ nhiều thuộc địa cũ của các cường quốc thuộc địa Tây Âu trong quá trình chuyển đổi từ thuộc địa sang nhà nước độc lập.
Được thành lập như một cơ quan của Hội Quốc Liên và nay là một phần của Liên Hợp Quốc, Tổ chức Lao động Quốc tế cũng có nhiệm vụ thúc đẩy và bảo vệ một số quyền sau này được đưa vào Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền (UDHR): mục tiêu chính của ILO ngày nay là thúc đẩy cơ hội cho phụ nữ và nam giới có được công việc hiệu quả và tử tế, trong các điều kiện tự do, công bằng, an ninh và phẩm giá con người (Báo cáo của Tổng Giám đốc cho Hội nghị Lao động Quốc tế Khóa 87).
4. Sau chiến tranh thế giới thứ hai
Về vấn đề “phổ cập”, các tuyên bố không áp dụng cho phân biệt đối xử trong nước hoặc phân biệt chủng tộc. Henry J. Richardson III đã lập luận: Tất cả các chính phủ lớn tại thời điểm soạn thảo hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên bố chung đã cố gắng hết sức để đảm bảo, bằng mọi cách mà luật pháp trong nước và quốc tế biết, rằng các nguyên tắc này chỉ được áp dụng quốc tế và không có nghĩa vụ pháp lý đối với các chính phủ đó phải được thực hiện trong nước. Tất cả đều ngầm hiểu rằng đối với những nhóm thiểu số bị phân biệt đối xử của chính họ để có được đòn bẩy trên cơ sở hợp pháp có thể yêu cầu thực thi các quyền rộng rãi này sẽ tạo ra áp lực sẽ là động lực chính trị.
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) là một tuyên bố không ràng buộc thông qua bởi Đại hội đồng LHQ vào năm 1948, một phần để đáp ứng với sự man rợ của chiến tranh thế giới II. UDHR kêu gọi các quốc gia thành viên thúc đẩy một số quyền con người, dân sự, kinh tế và xã hội, khẳng định những quyền này là một phần của “nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới”. Tuyên bố này là nỗ lực pháp lý quốc tế đầu tiên nhằm hạn chế hành vi của các quốc gia và áp đặt các nghĩa vụ đối với công dân của họ theo mô hình song quyền giữa quyền và nghĩa vụ.
“… công nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới” ( Mở đầu cho Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948)
Năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) đã được Liên hợp quốc thông qua, giữa chúng làm cho các quyền trong UDHR trở nên ràng buộc đối với tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, chúng chỉ có hiệu lực vào năm 1976, khi được đủ số quốc gia phê chuẩn (mặc dù đạt được ICCPR, một hiệp ước không bao gồm các quyền kinh tế hoặc xã hội, Hoa Kỳ chỉ phê chuẩn ICCPR vào năm 1992). ICESCR cam kết 155 thành viên tiểu bang nỗ lực hướng tới việc cấp các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ESCR) cho các cá nhân.
Nhiều hiệp ước khác đã được đưa ra ở cấp độ quốc tế. Chúng thường được gọi là công cụ nhân quyền. Một số công ước quan trọng như:
– Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng (thông qua năm 1948, có hiệu lực: 1951)
– Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc ( CERD ) (thông qua năm 1966, có hiệu lực: 1969)
– Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ ( CEDAW ) (có hiệu lực: 1981)
– Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn ( CAT ) (thông qua năm 1984, có hiệu lực: năm 1984)
– Công ước về Quyền trẻ em ( CRC ) (thông qua năm 1989, có hiệu lực: 1989)
– Công ước Quốc tế về Bảo vệ Quyền của Tất cả Người lao động Di cư và Thành viên Gia đình của họ ( ICRMW ) (thông qua năm 1990)
– Quy chế Rome của Tòa án Hình sự Quốc tế ( ICC ) (có hiệu lực: 2002)
5. Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp. Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất khoảng 500 ngôn ngữ. Tuyên bố phát sinh trực tiếp từ những kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai và là tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trên thế giới, trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân, được hưởng, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác (điều 2). Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia. Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế bao gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cùng hai Nghị định thư không bắt buộc I và II. Năm 1966, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua hai Công ước trên, qua đó hoàn thành cơ bản Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế.
Tuyên bố bao gồm 30 điều khoản khẳng định các quyền của một cá nhân, mặc dù bản thân không ràng buộc về mặt pháp lý, đã được xây dựng trong các điều ước quốc tế sau đó, chuyển giao kinh tế, các công cụ nhân quyền khu vực, hiến pháp quốc gia và các luật khác. Tuyên bố là bước đầu tiên trong quá trình xây dựng Dự luật Nhân quyền Quốc tế, được hoàn thành vào năm 1966 và có hiệu lực vào năm 1976, sau khi đủ số lượng quốc gia phê chuẩn chúng