Bị đơn có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức hay chủ thể khác. Khi tham gia tố tụng, bị đơn có các quyền, nghĩa vụ: cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình:

Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lí chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho toà án; đề nghị toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; khiếu nại với viện kiểm sát về những chứng cứ mà toà án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu; được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do toà án thu thập; đề nghị toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do toà án tiến hành; nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình; tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; tham gia phiên toà;

Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; đề xuất với toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng; tranh luận tại phiên toà; được cấp trích lục bản án, quyết định của toà án; kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của toà án; phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật; phải có mặt theo giấy triệu tập của toà án và chấp hành các quyết định của toà án trong thời gian giải quyết vụ án; tôn trọng toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà; nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật; chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật; chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu; được toà án thông báo về việc bị khởi kiện (Điều 58, Điều 59 Bộ luật tố tụng dân sự).

 

1. Bị đơn dân sự là gì ?

Điều 53 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về bị đơn dân sự như sau:

“Điều 53. Bị đơn dân sự

1. Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

2. Bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:

a) Khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự;

b) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

c) Được thông báo kết quả điều tra có liên quan đến việc đòi bồi thường;

d) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

đ) Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn;

e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

g) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại.

3. Bị đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại”.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật tố tụng dân sự thì bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Nếu nguyên đơn dân sự là người bị thiệt hại do tội phạm gây ra thì bị đơn dân sự lại là người phải bồi thường những thiệt hại đó và những thiệt mà tội phạm gây ra cho người bị hại và cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác. Bị đơn dân sự trong vụ án hình sự trước hết không phải là người gây ra thiệt hại cho nguyên đơn dân sự hoặc người bị hại mà thiệt hại đó do người phạm tội gây ra, nhưng theo quy định của pháp luật thì họ lại phải bồi thường thay cho bị cáo. Ví dụ: Cha mẹ bị cáo là người chưa thành niên phải bồi thường những thiệt hại do bị cáo gây ra, pháp nhân hoặc cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội phải bồi thường thiệt hại do nhân viên hoặc cán bộ của mình gây ra trong trương hợp thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân giao.

Trong trường hợp người trực tiếp gây thiệt hại về vật chất cho nguyên đơn dân sự hoặc người bị hại như: bị can, bị cáo (trong trường hợp bị can, bị cáo đã thành niên) thì Toà án không cần phải xác định họ là bị đơn dân sự nữa vì theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng như Bộ luật dân sự thì họ phải bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của họ gây ra. (họ vừa là bị cáo vừa là bị đơn dân sự ).

 

2. Quy định về thời điểm thực hiện quyền yêu cầu phản tố của bị đơn

Việc xác định thời điểm thực hiện quyền yêu cầu phản tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Trước đây, Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015 không có quy định về thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn nên đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau về thời hạn bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, tại thời điểm đó có ba quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố chỉ trong khoảng thời hạn bị đơn phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện.
Theo đó, cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn.
Như vậy, theo quy định trên thì hoàn toàn có thể hiểu rằng bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án. Trong trường hợp gia hạn thì thời gian được gia hạn là không quá mười lăm ngày. Tóm lại, thời hạn tối đa để bị đơn phải đưa ra yêu cầu phản tố là ba mươi ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng, bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
“Quan điểm này dựa trên cơ sở quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án”. Như vậy, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố ngay cả trong phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên, quan điểm trên tạo nên bất cập trong quá trình giải quyết vụ án. Bởi lẽ, nếu bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố sau thời điểm Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án buộc phải tạm hoãn phiên tòa và tiến hành lại các thủ tục cần thiết như giao nộp chứng cứ, thu thập chứng cứ, công bố chứng cứ, hòa giải,… dẫn đến vụ án sẽ bị kéo dài thời hạn giải quyết, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, quyền của các đương sự khác sẽ không được đảm bảo nếu thời hạn của yêu cầu phản tố được hiểu như trên. Họ sẽ không chuẩn bị kịp tài liệu, chứng cứ để chống lại yêu cầu phản tố của bị đơn.
Quan điểm thứ ba cho rằng, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trong giai đoạn Tòa án chuẩn bị xét xử sơ thẩm cho đến trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
Quan điểm này được chấp nhận rộng rãi hơn vì nó phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTDS, hài hòa quyền và lợi ích giữa nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Trước những quan điểm trái chiều nêu trên, Bộ luật TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011, đã quy định rõ về thời điểm bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, cụ thể: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”.
 

3. Quy định về bị đơn dân sự, quyền và nghĩa vụ của bị đơn dân sự  

Thứ nhất: Bị đơn dân sự

Theo khoản 1 Điều luật đang được bình luận, bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Bị đơn dân sự là cá nhân, tức là người có hành vi phạm tội gây ra thiệt hại về vật chất cho nguyên đơn dân sự. Nếu người có hành vi phạm tội gây ra thiệt hại về vật chất cho nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên thì bố, mẹ hoặc người đỡ đầu của người chưa thành niên đó là bị đơn dân sự. Như vậy, bị đơn dân sự là cá nhân có thể là bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo là người thành niên và việc phạm tội của họ không liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ do cơ quan, tổ chức giao cho; cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên.

Cơ quan, tổ chức là bị đơn dân sự khi cán bộ, công chức của cơ quan, tổ chức này có hành vi phạm tội gây thiệt hại về vật chất cho nguyên đơn dân sự.

Khi công nhận cá nhân, cơ quan, tổ chức là nguyên đơn dân sự, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được bị đơn dân sự.

Thứ hai: Quyền của bị đơn dân sự

Theo khoản 2 Điều luật đang được bình luận, bị đơn dân sự có các quyền sau:

– Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

– Quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự;

– Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

– Quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;

– Quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án có liên quan đến việc đòi bồi thường thiệt hại;

– Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

– Quyền tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; xem biên bản phiên tòa;

– Quyền tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;

– Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

– Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại;

– Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng có trách nhiệm bảo đảm cho bị đơn dân sự thực hiện các quyền của họ.

Thứ ba: Nghĩa vụ của bị đơn dân sự

Bị đơn dân sự có những nghĩa vụ nhất định. Theo khoản 3 điều luật đang được bình luận, bị đơn dân sự có các nghĩa vụ sau:

– Nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

– Nghĩa vụ trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại;

– Nghĩa vụ chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án;

Điều luật đang được bình luận có những sửa đổi, bổ sung nhất định. Quyền của bị đơn được bổ sung nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.

 

4. Mẫu văn bản trình bày ý kiến của bị đơn gửi đến tòa án

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

———-o0o———-

 …,ngày … tháng …. năm …. 

 

BẢN TRÌNH BÀY Ý KIẾN

 

Kính gửi: Tòa án nhân dân (1)……………

Tôi tên là:…………………………………………;

Sinh ngày:……………………………….;

Số CMND :……………………… do cơ quan …. cấp vào ngày …. tháng … năm …….;

Nơi ĐKTT :…………………………………………;

Chỗ ở hiện tại :………………………………………..;

Nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án vào ngày ….. tháng … năm ….. của Tòa án nhân dân ……. đã thụ lý vụ án dân sự số(2) :…../……/TLST-…. về việc(3)  …….Theo đơn khởi kiện của(4)……. 

Tôi xin trình bày ý kiến theo yêu cầu của người khởi kiện như sau(5):

1 ……………………………………………….. ;

2 ………………………………………………..;

3 …………………………………………………..;

……………………………….

Các tài liệu, chứng cứ kèm theo (6):

1 ……………………………………………………….. ;

2 ……………………………………………………….. ;

Trân trọng cảm ơn./.

Người làm bản trình bày

(Ký và ghi rõ họ tên)

 

 

Hướng dẫn viết bản trình bày ý kiến:

(1): Ghi tên Toà án có thẩm quyền ra Thông báo về việc thụ lý vụ án;

(2),(3): Ghi theo nội dung trong Thông báo về việc thụ lý vụ án;

(4): Ghi họ và tên của người khởi kiện;

(5): Ghi cụ thể những ý kiến về từng yêu cầu của người khởi kiện trong Thông báo về việc thụ lý vụ án;

(6): Ghi cụ thể tên những tài liệu, chứng cứ của người viết bản trình bày ý kiến gửi kèm theo đơn khởi kiện.

Mọi vướng mắc pháp lý hoặc yêu cầu dịch vụ vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900.0191 Rất mong nhận được sự hợp tác. Trận trong cảm ơn!