Mô hình tăng tốc (accelerator or accelerator model) là mối quan hệ giữa đầu tư ròng hay phái sinh (bằng tổng đầu tư trừ đầu tư thay thế) và tỷ lệ thay đổi của thu nhập quốc dân. Sự gia tăng thu nhập và chi tiêu cho tiêu dùng sẽ tạo ra sức ép đối với năng lực sản xuất hiện có và điều này khích lệ các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn mức cần thiết để thay thế phần hao mòn của khối lượng tư bản hiện có, tức đầu tư vào máy móc, thiết bị và nhà xưởng mới để đáp ứng mức cầu cao hơn.

Vì vậy, chúng ta có thể coi đầu tư là một hàm của thu nhập. Sự gia tăng trong đầu tư phái sinh đến lượt nó lại tăng cường tác dụng của nhân tử trong quá trình làm tăng thu nhập quốc dân. Sự gia tăng đầu tư (A/) sẽ tạo ra sự thay đổi trong thu nhập (AK) và tiêu dùng (AC), qua đó khuyếch đại sự thay đổi của thu nhập quốc dân:

a/ ► f AT ►fAC ► far

Tác động tổng hợp của cơ chế tăng tốc và nhân tử trong suốt chu kỳ đầu tư cho phép chúng ta lý giải những thay đổi trong quy mô hoạt động kinh tế có liên quan tới chu kỳ kinh doanh.Vì quy mô đầu tư phụ thuộc vào tỷ lệ thay đổi của GDP, nên khi GDP tăng nhanh, đầu tư sẽ đạt mức cao do các nhà sản xuất muốn nâng cao năng lực sản xuất của họ . Mức đầu tư cao làm tăng tổng cầu và điều này góp phần duy trì GDP ở mức cao. Ngược lại, khi tỷ lệ tăng trưởng của GDP chậm lại từ thời điểm này, các doanh nghiệp không cần nâng cao năng lực sản xuất nhanh như trước nữa và vì vậy đầu tư suy giảm theo hướng chỉ đạt mức đầu tư thay thế. Sự suy giảm quy mô đầu tư này làm giảm tổng cầu và có thể là nguyên nhân gây ra sự suy giảm GDP. Nhưng sau khi GDP ở mức thấp trong một thời gian, máy móc dần đần bị hao mòn và các doanh nghiệp phải thay thế một phần máy móc để duy trì năng lực sản xuất ở mức đủ để đáp ứng tổng cầu ngay cả khi nó ở mức thấp hơn trước. Sự gia tăng đầu tư này tại thời điểm r2 sẽ lầm tăng tổng cầu và khích lệ sự tăng trưởng của GDP.

Hình 83. Cơ chế tăng tốc.

Các đường GDP và / biểu thị sự biến động của tổng sản phẩm trong nước ịGDP) và đầu tư (/) theo thời gian.